Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại nhà văn hóa thôn Nà Bản, xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2022/HSST ngày 16/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Liễu Văn Th (tên gọi khác: Không), sinh ngày 31 tháng 10 năm 1972, tại tỉnh B; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Kh, xã N, thành phố B1, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Liễu Văn V và bà Hoàng Thị K (đều đã chết); có vợ là Hà Thị Ph và có 02 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2000); tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự ( Tại quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 50/2019/QĐ-TA ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B1 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 (mười tám) tháng. Ngày 27/02/2021 chấp hành xong).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/4/2022 đến ngày 26/4/2022, hiện nay đang tại ngoại. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Hà Thị Ph, sinh năm 1976. Trú tại: Thôn Kh, xã N, thành phố B1, tỉnh B. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ ngày 20/4/2022, tại khu vực tổ 1, phường S, thành phố B1, tỉnh B, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố B1 bắt quả tang Liễu Văn Th có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kết quả kiểm tra đã phát hiện và tạm giữ: 01 (một) gói được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu trắng bạc, bên trong có chứa chất bột màu trắng trong lòng bàn tay phải của Liễu Văn Th (niêm phong trong phong bì ký hiệu T1); 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA WAWE RSX, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 97B1-498.xx cùng chìa khóa xe.

Cùng ngày, cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Liễu Văn Th tại thôn Kh, xã N, thành phố B1, tỉnh B. Qua khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.

Liễu Văn Th khai nhận: Số chất bột màu trắng được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu trắng bạc cơ quan công an đã thu giữ tại lòng bàn tay phải Th là ma túy loại Heroine của Th tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Về nguồn gốc số ma túy Liễu Văn Th khai: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/4/2022, Liễu Văn Th điều khiển xe môtô biển kiểm soát 97B1 - 498.xx đi từ nhà tại thôn Kh, xã N, thành phố B1, tỉnh B đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh B thuộc tổ 12, phường Ng, thành phố B1, tỉnh B để tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, Th đã gặp và hỏi mua trực tiếp của một người đàn ông tên T không rõ họ tên đầy đủ, địa chỉ cụ thể 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) ma tuý loại Heroine thì được người này nhất trí bán, sau khi đưa tiền thì Th được người đàn ông đưa cho 01 (Một) gói ma tuý được gói bằng giấy có một mặt màu trắng, một mặt màu trắng bạc. Sau khi mua bán xong ma túy người đàn ông đi đâu Th không biết, còn Th cất giấu ma túy trong lòng bàn tay phải và điều khiển xe môtô đi đến khu vực tổ 1, phường S, thành phố B1, tỉnh B thì bị tổ công tác Công an thành phố B bắt quả tang và thu giữ số ma túy cùng một số đồ vật, tài sản khác.

Tiến hành cân riêng số chất bột màu trắng thu giữ của Liễu Văn Th trong phong bì ký hiệu T1 xác định được tổng khối lượng là 0,14g (Không phẩy một bốn gam). Sau khi cân xác định khối lượng, toàn bộ số chất bột màu trắng nêu trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi trưng cầu giám định chất ma túy.

Tại kết luận giám định số 43/KL-KTHS ngày 29/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là:

0,14g (không phẩy một bốn gam)”.

Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKSTPBK ngày 14/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với Liễu Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

......

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

......

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Liễu Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 13 đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 20/4/2022 đến ngày 26/4/2022.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T78 và 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2. Tịch thu hóa giá nộp vào ngân sách nhà nước ½ giá trị của chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA WAWE RSX màu đỏ đen, có số khung RLHJA3117EY158239, số máy JA31E0290549, biển kiểm soát 97B1- 498xx đã qua sử dụng cùng chìa khóa xe, còn ½ giá trị còn lại cua chiếc xe trả lại cho bà Hà Thị Ph.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là không oan, đúng người, đúng tội và xin hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo thống nhất với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có cơ sở khẳng định:

Hồi 09 giờ ngày 20/4/2022, tại khu vực tổ 1, phường S, thành phố B1, tỉnh B, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố B1 bắt quả tang Liễu Văn Th đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,14g (Không phẩy một bốn gam) ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo không có tiền án và có 01 tiền sự. Tại quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 50/2019/QĐ-TA ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B1 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 (Mười tám) tháng, ngày 27/02/2021 chấp hành xong.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến. Do vậy, được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung "Phạt tiền” theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T78, mặt trước phong bì có dòng chữ “Vụ: Liễu Văn Th (1972) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn;

01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2, mặt trước phong bì có dòng chữ “Phong bì và giấy gói cũ”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) chữ “Th”, 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố B1. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Tất cả không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA WAWE RSX màu đỏ đen, có số khung RLHJA3117EY158239, số máy JA31E0290549, biển kiểm soát 97B1- 498xx đã qua sử dụng cùng chìa khóa xe. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định chiếc xe có đăng ký chu xe mang tên Liễu Văn Th và là tài sản chung của bị cáo và vợ là bà Hà Thị Ph tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Việc bị cáo sử dụng xe vào việc đi mua ma túy bà Ph không biết nên cần tịch thu hoa giá sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe (phần giá trị thuộc sở hữu cua bị cáo ), ½ giá trị còn lại cu a chiếc xe trả lại cho bà Ph sau khi đã hóa giá.

* Trong vụ án này còn có người đàn ông tên T đã bán ma túy cho Liễu Văn Th, do Th không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Liễu Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Liễu Văn Th 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 20/4/2022 đến ngày 26/4/2022.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T78, mặt trước phong bì có dòng chữ “Vụ: Liễu Văn Th (1972) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A2, mặt trước phong bì có dòng chữ “Phong bì và giấy gói cũ”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) chữ “Th”,06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố B1. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

- Tịch thu hóa giá nộp vào ngân sách nhà nước ½ giá trị của chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA WAWE RSX màu đỏ đen, có số khung RLHJA3117EY158239, số máy JA31E0290549, biển kiểm soát 97B1- 498xx đã qua sử dụng cùng chìa khóa xe (phần giá trị thuộc sở hữu của bị cáo), còn ½ giá trị còn lại cua chiếc xe trả lại cho bà Hà Thị Ph (phần giá trị thuộc sở hữu cua bà Hà Thị Ph).

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an thành phố Bắc Kạn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về