TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2023/HSST ngày 12 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2023 và Th báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 20/2023/TB-TA ngày 07 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990 tại Bình Phước; HKTT và chỗ ở: Thôn Phú V, xã Phú R, huyện Phú R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1964; Vợ, con chưa có;
Tiền án:
- Bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 110/2011/HSST ngày 24/8/2011.
- Bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 18 tháng tù. về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 154/2011/HSST ngày 21/11/2011.
- Bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 15/2014/HSPT ngày 24/02/2014.
- Bị Tòa án nhân dân huyện Phú R xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 73/2016/HSST ngày 24/8/2016.
Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2022 cho đến nay, “có mặt tại phiên tòa”.
2. Họ và tên: Chung Thanh N, sinh năm 1999 tại Cà Mau; HKTT và chỗ ở: Thôn Phú V, xã Phú R, huyện Phú R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Chung Văn D, sinh năm 1964 và bà Huỳnh Thị Đ, sinh năm 1974; Chồng, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2022 cho đến nay, “có mặt tại phiên tòa”.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1994 (Có mặt) Trú tại: Thôn Phú V, xã Phú R, huyện Phú R, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng ngày 15/11/2022, Nguyễn Văn Đ gửi tiền theo xe khách đến thành phố Hồ Chí Minh mua 2.500.000 đồng ma túy của một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) ở Bến xe Miền Đông, thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, T gửi ma túy theo xe khách về xã Phú R cho Đ. Sau khi nhận được ma túy, Đ mang về cất giấu tại chỗ ở thuộc thôn Phú Cường, xã Phú R, huyện Phú R để nhằm mục đích sử dụng và bán cho người khác.
Đến khoảng 16 giờ ngày 30/12/2022, Nguyễn Đình Th gọi điện cho Đ và nói Đ bán cho Th 500.000 đồng ma túy để Nguyễn Đ Th đến lấy, đồng thời Th hẹn Đ đến ngày 03/01/2023 Th trả tiền cho Đ thì Đ đồng ý. Sau đó, Đ lấy ma túy ra chiết một ít bỏ vào trong một gói nylon hàn kín ba mặt, một mặt kéo dính, kích thước khoảng (05x07)cm để bán cho Th. Một lúc sau, T đến trước hiên nhà của Đ gọi Đ. Lúc này, Đ đang ở trong phòng ngủ cùng với K (không xác định được nhân thân, lai lịch) nên Đ nhờ K cầm gói ma túy đưa cho T, T cầm gói ma túy đi về thì K cũng rời khỏi nhà của Đ. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Chung Thanh N (là người yêu của Đ) ở cùng nhà với Đ vào phòng ngủ của Đ và N để dọn vệ sinh phòng thì N phát hiện có một gói ma túy đựng trong một hộp giấy màu trắng đen để ở trên thảm lau chân nên N lấy lên xem rồi để xuống chỗ cũ. Sau khi dọn phòng ngủ xong, N đi xuống bếp dọn dẹp. Trong lúc dọn dẹp ở bếp thì N nghe tiếng ồn ào ở phía trước sân nên N chạy lên xem có sự việc gì. Khi N chạy lên thì thấy lực lượng Công an đang bắt giữ Đ. Lúc này, N sợ lực lượng Công an phát hiện ra gói ma túy mà lúc chiều N nhìn thấy nên N chạy vào phòng lấy hộp đựng ma túy chạy ra vườn vứt qua hàng rào.
Cùng ngày 30/12/2022, Chung Thanh N đến Cơ quan Công an huyện Phú R đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.
Cùng ngày 30/12/2022, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà của Nguyễn Văn Đ và thu giữ tang vật gồm:
- 01 đoạn ống nhựa màu trắng dán kín hai đầu, bên trong có chất bột màu trắng nghi là ma túy và 01 tờ giấy lịch gói lại bên trong có 02 cục nhỏ chất bột màu trắng nghi là ma túy.
- 01 gói nylon có kích thước (1,5x1,2)cm dán kín ba mặt, một mặt kéo dính chứa 01 viên nén nghi là ma túy.
- 01 gói nylon kích thước (0,6x1,2)cm bên trong chứa 02 viên nén nghi là ma túy M4-2 - 05 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7S màu vàng đã bị bể màn hình; 01 điện thoại di động nhân hiệu Iphone 8Plus màu trắng;
01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu xanh đậm; 01 điện thoại di đồng nhân hiệu Oppo màu xanh nhạt; 01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu đen đã bị bể màn hình - 01 hộp giấy cát tông hình hộp chữ nhật có kích thước (11,5x04x3,7)cm bên ngoài có chữ Gucci;
- 01 gói nylon kín ba mặt, một mặt kéo dính, có kích thước (6,5x3,7) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy;
- 01 cân điện tử màu đen có kích thước (09x06x1,5)cm;
- 04 cây kéo bằng kim loại màu trắng, trong đó ba cây có kích thước (10x0,5) cm, một cây có kích thước (14,2x0,6)cm;
- 02 phin tiểu nhãn hiệu Maxell;
- 20 gói nylon có cùng kích thước (1,5x1,7)cm kín ba mặt, một mặt kéo dính bên trong không có gì;
- 01 ống nhựa màu trắng dài 08cm, đường kính 0,7cm, một đầu hàn kín, một đầu cắt vát nhọn;
- 01 gói nylon màu trắng kích thước (08x6,6)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy;
- 01 hộp giấy cát tông màu đen kích thước (17,5x09x07)cm;
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: một ống nhựa màu đen dài 29,5cm, đường kính 0,5cm; một ống thủy tinh dài 19cm, đường kính 0,5cm một đầu uốn cong phình to hình cầu đường kính 2,5cm bị bể một phần; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Viva màu xanh; một chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh kích thước cao 10cm, đường kính trung bình 04cm.
Tại Bản kết luận giám định số: 36/KL-KTHS ngày 06/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:
- Chất màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là Ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,0368 gam
- Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2, M3) được niêm phong gửi giám định là Ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là M2= 0,4956 gam, M3=8,6028 gam;
- 01 viên nén vàng chanh (ký hiệu M4-1), 02 (hai) viên nén màu nâu (ký hiệu M4-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng lần lượt là M4-1=0,0994 gam, M4-2=0,8041 gam;
- Chất màu nâu (ký hiệu M5) được bám dính trong hình cầu tròn của nỏ thủy tinh được niêm phong gửi giám định là Ma túy, loại Methamphetamine, không xác định được khối lượng.
Kèm theo kết luận giám định: Không.
+ Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu hoàn trả lại được niêm phong có khối lượng M2 = 0,2938 gam, M3 = 7,5782 gam.
*Tại Bản cáo trạng số 34/CTr-VKS ngày 11 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú R, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Chung Thanh N về tội “Che giấu tội phạm” theo khoản 1 Điều 389 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Tuyên bố bị cáo Chung Thanh N phạm tội “Che giấu tội phạm” - Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.
Áp dụng khoản i, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 08 năm đến 09 năm tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chấp hành mức án 14 năm đến 16 năm tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 389; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Chung Thanh N mức án 06 tháng đến 09 tháng tù. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án.
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án, kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã xác định được: Do là người nghiện ma túy và muốn thu lợi từ việc mua bán trái chất ma túy nên bị cáo Nguyễn Văn Đ đã có hành vi mua 9,0984 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích vừa sử dụng và vừa bán lại. Đến ngày 30/12/2022, bị cáo Đ đã lấy ra 01 ít ma túy trong khối lượng 9,0984 gam bán cho Nguyễn Đình Th với số tiền 500.000 đồng. Ngoài ra, Đ còn cất giấu tại nhà của mình 0,0368 gam ma túy, loại Heroine và 0,9035 gam ma túy, loại MDMA nhằm mục đích để sử dụng.
Đối với bị cáo Chung Thanh N tuy không hứa hẹn trước đối với bị cáo Đ nhưng sau khi biết lực lượng Công an đang bắt giữ bị cáo Đ thì bị cáo N đã có hành vi vứt ma túy ra ngoài hàng rào nhằm che giấu số ma túy này cho bị cáo Đ để lực lượng Công an không phát hiện được.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ thực hiện đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Do bị cáo đã nhiều lần bị kết án nên phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, do bị cáo mua bán, sử dụng Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam nên phải chịu tình tiết định khung theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Chung Thanh N thực hiện đã phạm tội “Che giấu tội phạm” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 389 Bộ luật hình sự.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về mua bán, cất giữ chất ma túy, gây ra sự hoang mang, bất bình trong nhân dân, làm mất an ninh tại địa phương, cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội khác. Các bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức về tác hại của hành vi che giấu, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy sẽ gây ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe con người và là nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, bị xử lý nghiêm trước pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán ma túy và cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Bản thân bị cáo Nguyễn Văn Đ là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án. Bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 110/2011/HSST ngày 24/8/2011; Bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 18 tháng tù. về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 154/2011/HSST ngày 21/11/2011; Bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 15/2014/HSPT ngày 24/02/2014; Bị Tòa án nhân dân huyện Phú R xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 73/2016/HSST ngày 24/8/2016. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới chứng tỏ bị cáo là người thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo Chung Thanh N trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, bị cáo bị tai nạn giao Th phải ghép sọ. Ngoài ra, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Cần áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chấp hành hình phạt chung là phù hợp.
Đối với Nguyễn Đình Th và Nguyễn Đ Th đã có hành vi mua trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn Đ, hiện Th và T đang bị Cơ quan điều tra Công an huyện Phú R khởi tố và xử lý trong vụ án khác, không đề cập xử lý trong vụ án này nên HĐXX không xem xét.
Đối với những người bán trái phép chất ma túy cho Đ và đối tượng tên K là người giao ma túy cho T. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý nên HĐXX không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với mẫu hoàn trả lại được niêm phong có khối lượng M2 = 0,2938 gam, M3 = 7,5782 gam; 01 đoạn ống nhựa màu trắng dán kín hai đầu; 01 tờ giấy lịch; 01 gói nylon có kích thước (1,5x1,2)cm dán kín ba mặt, một mặt kéo dính; 01 gói nylon kích thước (0,6x1,2)cm; 01 hộp giấy cát tông hình hộp chữ nhật có kích thước (11,5x04x3,7)cm bên ngoài có chữ Gucci; 01 gói nylon kín ba mặt, một mặt kéo dính, có kích thước (6,5x3,7) cm; 01 cân điện tử màu đen có kích thước (09x06x1,5)cm; 04 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 02 phin tiểu nhãn hiệu Maxell; 20 gói nylon có cùng kích thước (1,5x1,7)cm kín ba mặt, một mặt kéo dính; 01 ống nhựa màu trắng dài 08cm, đường kính 0,7cm, một đầu hàn kín, một đầu cắt vát nhọn; 01 gói nylon màu trắng kích thước (08x6,6)cm; 01 hộp giấy cát tông màu đen kích thước (17,5x09x07)cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: một ống nhựa màu đen dài 29,5cm, đường kính 0,5cm; một ống thủy tinh dài 19cm, đường kính 0,5cm một đầu uốn cong phình to hình cầu đường kính 2,5cm bị bể một phần; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Viva màu xanh; một chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh kích thước cao 10cm, đường kính trung bình 04cm là vật chứng của vụ án. Xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu xanh đậm là tài sản của Nguyễn Văn Đ sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung vào N sách nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động nhân hiệu Iphone 8Plus màu trắng là tài sản của Chung Thanh N và 03 điện thoại gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7S màu vàng đã bị bể màn hình, 01 điện thoại di đồng nhân hiệu Oppo màu xanh nhạt, 01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu đen đã bị bể màn hình là tài sản của Nguyễn Văn L. Xét thấy những tài sản trên không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho N và Lộc.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh, áp dụng pháp luật và mức hình phạt:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tuyên bố bị cáo Chung Thanh N phạm tội “Che giấu tội phạm” - Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (Sáu) năm 03 (Ba) tháng tù.
- Áp dụng: Điểm i, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 07 (Bảy) năm 03 (Ba) tháng tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chấp hành hình phạt 13 (Mười ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2022.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 389; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Chung Thanh N 06 (Sáu) tháng 03 (Ba) ngày tù. Bằng thời hạn tạm giam. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
Áp dụng Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả tự do cho bị cáo Chung Thanh N ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với mẫu hoàn trả lại được niêm phong có khối lượng M2 = 0,2938 gam, M3 = 7,5782 gam; 01 đoạn ống nhựa màu trắng dán kín hai đầu; 01 tờ giấy lịch; 01 gói nylon có kích thước (1,5x1,2)cm dán kín ba mặt, một mặt kéo dính; 01 gói nylon kích thước (0,6x1,2)cm; 01 hộp giấy cát tông hình hộp chữ nhật có kích thước (11,5x04x3,7)cm bên ngoài có chữ Gucci; 01 gói nylon kín ba mặt, một mặt kéo dính, có kích thước (6,5x3,7) cm; 01 cân điện tử màu đen có kích thước (09x06x1,5)cm; 04 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 02 phin tiểu nhãn hiệu Maxell; 20 gói nylon có cùng kích thước (1,5x1,7)cm kín ba mặt, một mặt kéo dính; 01 ống nhựa màu trắng dài 08cm, đường kính 0,7cm, một đầu hàn kín, một đầu cắt vát nhọn; 01 gói nylon màu trắng kích thước (08x6,6)cm; 01 hộp giấy cát tông màu đen kích thước (17,5x09x07)cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: một ống nhựa màu đen dài 29,5cm, đường kính 0,5cm; một ống thủy tinh dài 19cm, đường kính 0,5cm một đầu uốn cong phình to hình cầu đường kính 2,5cm bị bể một phần; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Viva màu xanh; một chai nhựa màu trắng, nắp màu xanh kích thước cao 10cm, đường kính trung bình 04cm
- Tuyên tịch thu sung vào N sách nhà nước đối với 01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu xanh đậm.
- Tuyển trả đối với 01 điện thoại di động nhân hiệu Iphone 8Plus màu trắng cho Chung Thanh N và 03 điện thoại gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7S màu vàng đã bị bể màn hình, 01 điện thoại di đồng nhân hiệu Oppo màu xanh nhạt, 01 điện thoại di động nhân hiệu Oppo màu đen đã bị bể màn hình cho Nguyễn Văn L (Theo biên bản giao nhận vật chứng Công an huyện Phú R và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú R)
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Chung Thanh N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2023/HS-ST
Số hiệu: | 46/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về