Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Nhà văn hóa huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với;

- Bị cáo Lê Văn Bình E, sinh năm 1994; tên gọi khác: Không; nơi sinh: Tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ, sinh năm 1962 và bà Phạm Thị Lệ T, sinh năm 1963; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 11/9/2018 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số 07/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; tạm giữ: Ngày 03/10/2019; tạm giam: Ngày 05/10/2019.

Bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T và có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Trần Văn Mạnh A, sinh năm 1982 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp 2. Võ Thị Mỹ L, sinh năm 1993 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp 3. Lê Vũ B, sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Y, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp 4. Trần Thị Diễm C, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 14/7/2019, sau khi mua được 400.000đồng ma túy từ người lạ mặt ở thành phố Hồ Chi Minh về Đồng Tháp, E điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 66L2-X đến nhà trọ 289 thuộc ấp P, xã P, rước Võ Thị Mỹ L đến nhà Nguyễn Thành L1 thuộc ấp A, xã A, trên đường đi, E nói với Mỹ L có mua ma túy để sử dụng, L đồng ý. Khi đến nhà Nguyễn Thành L1, thấy L1 và Trần Thị Diễm C đã ở đó, E kêu L1 lấy dụng cụ ra để sử dụng ma túy. L1 đi vào phòng lấy một chai nhựa, trên nắp có gắng ống hút màu vàng-cam và một nỏ thủy tinh. E lấy gói nylon màu trắng, hàn kín hai đầu bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng từ bóp da màu đen, nhãn hiệu CK Caivin Klein, ngăn ngoài cùng có dòng chữ MADE IN U.S.A trong túi quần Jean, phía sau, bên phải, dùng kéo cắt một đầu, đổ phân nữa vào nỏ thủy tinh sử dụng cùng với L1, C và L, phần còn dư E hàn kín lại cất trong bóp da như ban đầu.

Khoảng 06 giờ ngày 15/7/2019, E đi chợ mua bánh mì quay lại nhà L1 nhìn thấy L1, C, L, Trần Văn Mạnh A và Lê Vũ B đang sử dụng số ma túy còn dư lại trong nỏ ở lần trước nên vào sử dụng chung hết số ma túy còn lại trong nỏ. Đến khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 15/7/2019 lực lượng Công an huyện T phối hợp cùng Công an xã A kiểm tra, phát hiện bóp da có đặc điểm nêu trên nằm dưới nền nhà, ngay vị trí E đang ngồi, tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật.

Trong quá trình khởi tố, E bỏ trốn, đến ngày 03/10/2019 bắt được.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói ny lon màu trắng, được hàn kín hai đầu bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng; 01 chai nhựa màu trắng, nhãn hiệu Wake up 247, trên nắp chai màu đen có gắn 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu vàng-cam; 01 cây kéo làm bằng kim loại màu trắng; 01 bóp da màu đen nhãn hiệu CK Caivin Klein, ngăn ngoài cùng có dòng chữ MADE IN U.S.A;

01 xe mô tô loại wave, màu trắng-đen, biển số 66L2-X.

Kết luận giám định số: 573/KL-KTHS, ngày 17/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự của Công an tỉnh Đồng Tháp, kết luận: tinh thể rắn, màu trắng chứa bên trong 01 gói nylon được hàn kín hai đầu, niêm phong gửi giám định là chất ma túy có khối lượng 0,126gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính Phủ).

Tại Cáo trạng số: 47/CT-VKS-TN ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Lê Văn Bình E phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Lê Văn Bình E, phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Tình tiết tăng nặng: Không. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Lê Văn Bình E khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tham gia tranh luận với Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 15/7/2019; Tờ tự nhận ngày 15/7/2019 của bị cáo; Kết luận giám định số: 573/KL-KTHS, ngày 17/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự của Công an tỉnh Đồng Tháp; Lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và những tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo là tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,126gam, loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma túy, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội.

Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị xã hội lên án. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội; nhất là khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp đẩy lùi tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại hậu quả rất lớn của nó, cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo biết rõ điều đó vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo còn rủ thêm nhiều người gồm L1, L, C sử dụng trái phép chất ma túy làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa phương nên khi lượng hình cần xem xét mức hình phạt đối với bị cáo.

Từ những căn cứ trên, cần áp dụng hình phạt với một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng với bị cáo: không.

[4] Hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với xe mô tô loại wave, màu trắng-đen, biển số 66L2-X qua xác minh chủ xe mang tên Tạ Văn B, ngụ ấp A, xã A, huyện H. E khai nhận mượn của bạn tên T (không rõ họ), ngụ ấp L, xã A, huyện T. Hiện Cơ quan Cảnh sát chưa làm việc được với người tên T nên không có căn cứ xác định là tài sản của T. Vì vậy, xét thấy giao cho Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp tiếp tục làm rõ để xử lý theo pháp luật là phù hợp theo Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 gói ny lon màu trắng, được hàn kín hai đầu bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng, sau giám định có khối lượng 0,082 gam; 01 chai nhựa màu trắng, nhãn hiệu Wake up 247, trên nắp chai màu đen có gắn 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu vàng-cam; 01 cây kéo làm bằng kim loại màu trắng; 01 bóp da màu đen nhãn hiệu CK Caivin Klein, ngăn ngoài cùng có dòng chữ MADE IN U.S.A. Xét thấy, các vật chứng trên là vật cấm tàng trữ, chứng cứ, công cụ thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Đối với Nguyễn Thành L1 hiện không có mặt ở địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

[7] Đối với Võ Thị Mỹ L, Trần Thị Diễm C, Trần Văn Mạnh A, Lê Vũ B đã cùng bị cáo sử dụng ma túy tại nhà L. Xét thấy, hành vi của những người này không đồng phạm với bị cáo về tội tàng trữ và không cấu thành tội không tố giác tội phạm. Hiện Cơ quan điều tra đã lập biên bản tách ra xử lý hành chính nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn Bình E phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Bình E 01 (một) năm, 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 03 tháng 10 năm 2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói ny lon màu trắng, được hàn kín hai đầu bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng, sau giám định có khối lượng 0,082 gam; 01 (một) chai nhựa màu trắng, nhãn hiệu Wake up 247, trên nắp chai màu đen có gắn 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu vàng-cam; 01 (một) cây kéo làm bằng kim loại màu trắng; 01 (một) bóp da màu đen nhãn hiệu CK Caivin Klein, ngăn ngoài cùng có dòng chữ MADE IN U.S.A.

- Giao cho Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp tiếp tục xử lý theo pháp luật:

01 (một) xe mô tô loại wave, màu trắng-đen, biển số 66L2-X.

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn Bình E phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2019/HS-ST

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về