Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2022/TLST - HS ngày 08 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2022/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Duy H; sinh ngày: 21/9/1996; giới tính: Nam; tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Duy H1, sinh năm: 1966; con bà Trần Thị Q, sinh năm: 1969 đều trú tại thôn Q Đoài, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/01/2022 đến ngày 08/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. ( Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

- Anh Đặng Tấn T1 sinh năm 1977; trú tại: Thôn Q, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ( Vắng mặt).

- Anh Nhâm Hoàng T2, sinh năm 1981; trú tại: Thôn Q, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 05/01/2022, Lê Duy H1 đi bộ từ nhà ở thôn T, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đến khu vực thôn Q, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, H gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi nhưng không biết tên, tuổi và địa chỉ 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. H cất túi ma túy vừa mua vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi bộ về nhà. Đến 20 giờ 25 phút cùng ngày, H đang đi bộ trên đường thuộc thôn Q, xã H, huyện Thái Thụy thì bị tổ công tác Công an xã H tuần tra phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương, anh Đặng Tấn T1 và anh Nhâm Hoàng T2, tổ công tác tiến hành kiểm tra người H đã thu giữ trong túi quần bên phải phía trước H đang mặc 01 túi nilon màu trắng có mép cài viền màu xanh, mở ra bên trong túi có chứa chất màu trắng dạng tinh thể (niêm phong mẫu A1), H khai nhận đó là ma túy đá của H vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã đưa H và mời người chứng kiến về trụ sở Công an xã H, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và làm các thủ tục khác theo quy định của pháp luật. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Duy H nhưng không phát hiện thu giữ gì thêm.

Bản kết luận giám định số 08/KLGĐMT- PC09 ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “ Vật chứng trong phong bì niêm phong mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8187 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lê Duy H không có ý kiến khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 39/CT-VKSTT ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy thực hiện quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lê Duy H và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Duy H từ 2 năm đến 2 năm 3 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 06 tháng 01 năm 2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8187 gam” , còn lại sau giám định 0,6869 gam trong phong bì niêm phong số 08/KLGĐ - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ kết tội bị cáo: Bị cáo Lê Duy H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khoảng Hồi 20 giờ 25 phút ngày 05/01/2022, tại trục đường thuộc thôn Q, xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, Lê Duy H đã có hành vi tàng trữ trái phép tại túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8187 gam, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an xã H bắt quả tang. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy khám xét khẩn cấp nơi ở của H nhưng không thu giữ gì. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo Lê Duy H phù hợp với lời khai của người chứng kiến là anh Đặng Tấn T1 và anh Nhâm Hoàng T2. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã H huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lập hồi 20 giờ 25 phút ngày 05/01/2022 tại trụ sở Công an xã H, huyện Thái Thụy. Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu lập hồi 21 giờ 55 phút. Bản kết luận giám định số 08/KLGĐ - PC09, ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì:

“ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; [...]”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma túy là vật cấm lưu hành, không những làm sa sút về sức khỏe trí tuệ con người mà nó còn làm hủy hoại đạo đức nhân cách con người, phá vỡ hạnh phúc gia đình, là tác nhân lan truyền đại dịch HIV/AIDS, là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác gây ảnh hưởng đến trật tự trị an. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án nên không phải chịu tình tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bố đẻ bị cáo là ông Lê Duy H1 được tặng thưởng kỷ niệm chương đã tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Vị Xuyên – Hà Tuyên do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Lê Duy H khai mua của người của một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực xã H, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Lê Duy H ma túy, ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8187 gam” (không phẩy tám nghìn một trăm tám mươi bẩy gam) , còn lại sau giám định 0,6869 gam; (không phẩy sáu nghìn tám trăm sáu mươi chín gam) trong phong bì niêm phong số 08/KLGĐ - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; là vật Nhà nước cấm lưu hành. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50; Điều 47 Bộ luật hình sự và các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Duy H 02 năm 3 tháng tù (Hai năm ba tháng tù), thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 06 tháng 01 năm 2022).

2. Về xử lý vật chứng:

2.1. Tịch thu tiêu hủy số ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8187 gam” (không phẩy tám nghìn một trăm tám mươi bẩy gam), còn lại sau giám định 0,6869 gam; (không phẩy sáu nghìn tám trăm sáu mươi chín gam) trong phong bì niêm phong số 08/KLGĐ - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

3. Về án phí: Bị cáo Lê Duy H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 17/5/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về