Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2022/HS–ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 42/2022/HS – ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2022/TLST – HS ngày 17 tháng 03 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST – HS ngày 31 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Vũ Phước Q1, sinh ngày 05/01/1987; Tên gọi khác: Hino; Nơi đăng ký thường trú: Số 307, đường M, khóm A, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghê nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nguyễn Văn P và bà Võ Thúy H; Bị cáo có vợ và có 01 người con; Tiền án, Tiền sự: Không có; Nhân thân: Vào ngày 11/9/2009, bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm xử phạt 06 tháng tù về Tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ (bị cáo chấp hành xong, đã được xóa án tích); Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05 tháng 12 năm 2021 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 28 tháng 11 năm 2021, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên bị cáo Q1 điều khiển xe mô tô biển số 83S3-0305 đến khu vực Bến xe Trà Men gặp một người phụ nữ mua ma tuý để sử dụng. Khi đến Bến xe Trà Men, bị cáo Q1 gặp một người phụ nữ (không rõ họ tên và địa chỉ) hỏi mua  400.000 đồng ma tuý đá thì được người phụ nữ lạ mặt đồng ý bán. Sau khi có được ma tuý thì đem về nhà cất giấu. Vào ngày 29 tháng 11 năm 2021, bị cáo Q1 lấy ra một ít ma tuý sử dụng, số ma tuý còn lại bị cáo Q1 cất giấu trong bóp da. Đến khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 05 tháng 12 năm 2021 thì bi cáo Q1 lấy gói ma tuý cất giấu vào trong túi quần bên phải phía trước rồi điều khiển xe đi dạo, khi đi đến khu vực trước nhà số 109T, đường Điện Biên Phủ, khóm 2, phường 6, thành phố Sóc Trăng thì bị Công an bắt và thu giữ số ma tuý Q1 đã mua vào ngày 28 tháng 11 năm 2021 sử dụng chưa hết.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như đã nêu trên.

Về vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng thu giữ: 01 gói niêm phong số 177/GĐMT-PC09, ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký giám định viên Phạm Thanh Trường S, Trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P và Điều tra viên Nguyễn Hồng Thanh T; 01 xe mô tô màu đỏ đen, nhãn hiệu Honda, biển số 83S3-0305; 01 điện thoại di động có chữ Iphone, mặt sau bị bể nứt không có sim; 01 điện thoại di động Nokia, có sim số 0941.406.524. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ và trao trả 01 xe mô tô màu đỏ đen, nhãn hiệu Honda, biển số 83S3-0305 cho chủ sở hữu là bà trần Thị Huế Phương.

Tại biên bản niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 09 tháng 12 năm 2021 và bản kết luận giám định số 177/GĐMT-PC09, ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,2999 gam,  loại Methaphetamine.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS.TPST ngày 16 tháng 03 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo do bản thân bị cáo bị nghiện ma túy nên tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cáo trạng số 35/CT-VKS.TPST ngày 16 tháng 03 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Q1 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu, tiêu hủy các gói ma túy của bị cáo do là hàng cấm tàng trữ và trả lại cho bị cáo 02 điện thoại di động đã thu giữ của bị cáo do không có liên quan đến hành vi phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ, Q1 liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thành phố Sóc Trăng trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,2999 gam, loại Methaphetamine như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với bị cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do bản thân bị cáo bị nghiện ma túy nên tàng trữ ma túy nhằm mục đích để sử dụng.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với các lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05 tháng 12 năm 2021, biên bản khám nghiệm hiện trường, các bản ảnh hiện trường, biên bản kết luận giám định số 177/GĐMT-PC09 ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sóc Trăng và các Q1liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 05/12/2021, bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng là 0,2999 gam ma túy, loại Methamphetamine, nhằm mục  đích  để  sử  dụng.  Vì  vậy,  hành  vi  tàng  trữ  trái  phép  0,2999  gam Methamphetamine của bị cáo Q1 có đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Do đó, cáo trạng số 35/CT-VKS.TPST ngày 16 tháng 03 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không làm oan, sai cho bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo Q1 là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ nhận thức và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố tình thực hiện là thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó, cần phải có một mức hình phạt thật nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài nhất định tương xứng với từng hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo cải tạo, học tập, sửa chữa sai lầm của mình trở thành người công dân tốt, sống có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, trước khi quyết định mức hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để cụ thể hóa hình phạt như sau: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, bị cáo nghiệm ma túy nhiều năm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà đáng lẽ ra bị cáo phải chịu.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự cần tịch thu, tiêu hủy một gói niêm phong số 177/GĐMT-PC09, ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký giám định viên Phạm Thanh Trường S, Trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P và Điều tra viên Nguyễn Hồng Thanh T do là hàng cấm tàng trữ theo quy định; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động có chữ Iphone, mặt sau bị bể nứt không có sim; 01 điện thoại di động Nokia, có sim số 0941.406.524 do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện.

Đối với người phụ nữ bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Q1tại khu vực bến xe Trà Men. Do không xác minh được nhân thân, lai lịch người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng không có căn cứ để xem xét, xử lý là đúng quy định của pháp luật.

- Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng của vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH 

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 và khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 333; Điều 338 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

-  Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” .

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam 05/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu, tiêu hủy một gói niêm phong vụ số 177/GĐMT-PC09, ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký giám định viên Phạm Thanh Trường S, Trợ lý giám định Ngô Hoàng Lâm P và Điều tra viên Nguyễn Hồng Thanh T

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động có chữ Iphone, mặt sau bị bể nứt không có sim; 01 điện thoại di động Nokia, có sim số 0941.406.524  (Theo  biên  bản  giao,  nhận  vật  chứng  và  Phiếu  nhập  kho  cùng  ngày 16/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Vũ Phước Q1 là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

415
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2022/HS–ST

Số hiệu:42/2022/HS–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về