TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 10/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 10 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình và điểm cầu thành phần – Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch tiến hành xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2023/TLST-HSST ngày 16 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:40/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thành L; giới tính: nam; tên gọi khác: không; sinh ngày 01 tháng 12 năm 2001, tại Quảng Bình; nơi cư trú: Tổ dân phố 11, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: thợ hàn; con ông Nguyễn Xuân L (đã chết) và bà Trần Thị Kiều P, sinh năm 1984; vợ, con: chưa có;
Tiền án: 01 tiền án theo bản án số 53/2021/HS-ST ngày 05/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/5/2022; Tiền sự: không.
Về nhân thân: Ngày 11/7/2016 bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi “trộm cắp tài sản”; Ngày 01/11/2016 bị Công an phường Bắc lý xử phạt Hành chính Cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 09/5/2017 bị Công an phường Đức Ninh Đông xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 15/8/2018 bị Công an Thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính 750.000 đồng; Ngày 15/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 64/2018/HS-ST; ngày 27/5/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 33/2019/HS-ST; ngày 09/9/2020, bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/12/2022 cho đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Hoàng Thành Đ, sinh năm 2003; nơi cư trú: TDP 7, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Có mặt;
+ Anh Nguyễn Quang P, sinh năm 1993; nơi cư trú: TDP 6, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tối ngày 01/12/2022, Nguyễn Thành L đang ngồi nhậu tại quán “6789” thuộc phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới thì nãy sinh ý định sử dụng ma túy. L một mình đi bộ ra khu vực chợ Đồng Phú gặp một người đàn ông không quen biết hỏi mua ma túy, người này hỏi L “mua bao nhiêu”, L trả lời “sáu trăm”, người này đồng ý bán và dặn L đứng đợi. Khoảng 05 phút sau, người đàn ông quay lại đưa cho L 01 túi nilon bên trong có chứa nhiều viên nén, L nhận gói ni lon và đưa cho người này số tiền 600.000 đồng.
Sau khi mua được ma túy, L quay trở lại quán “6789” tiếp tục nhậu với bạn. Do sợ không đủ trả tiền nhậu nên L hẹn bạn là Nguyễn Hoàng Thành Đ, sinh năm 2003, trú tại TDP 7, phường H, thành phố Đ cùng ra huyện Bố Trạch với mục đích cầm cố điện thoại của bạn để lấy tiền trả. Sau đó, L và Đ thuê xe taxi của anh Nguyễn Quang P, sinh năm 1993 trú tại TDP 6, phường B, thành phố Đ chở ra huyện Bố Trạch. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, khi xe chạy đến khu vực thôn Phúc Tự Đông, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch thì L và Đ xuống xe. Trong lúc đang đứng bên lề đường Quốc lộ 1A thì bị lực lượng Công an huyện Bố Trạch kiểm tra, phát hiện bên trong túi quần bên phải của L có 01 gói nilon bên trong chứa 20 viên nén hình tròn. L khai nhận các viên nén này là ma túy tổng hợp, được cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong toàn bộ tang vật.
Tại Kết luận giám định số 1302/KL-KTHS ngày 07/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã kết luận: “Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,976g (Một phẩy chín trăm bảy mươi sáu gam). Methamphetamine nằm trong Danh mục các chất ma túy, số thứ tự 247, Danh mục IIC, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ".
Tại Cáo trạng số 29/CT-VKSBT ngày 16/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; Về hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói hoàn trả; Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: bị cáo phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng, Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin hứa sẽ không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với các vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 01/12/2022, tại đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc thôn Phúc Tự Đông, xã Đại Trạch, lực lượng Công an huyện Bố Trạch đã tiến hành kiểm tra, phát hiện bên trong túi quần bên phải của Nguyễn Thành L có giấu 01 gói nilon, bên có chứa 20 viên nén hình tròn. Kết luận giám định số 1302/KL-KTHS ngày 07/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã xác định: 20 viên nén hình tròn chứa trong 01 gói nilon là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,976g (Một phẩy chín trăm bảy mươi sáu gam). Methamphetamine nằm trong Danh mục các chất ma túy, số thứ tự 247, Danh mục IIC, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra trong vụ án này thấy rằng: Bị cáo là người đủ năng lực để nhận thức ma túy (Methamphetamine) là chất gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm do sử dụng ma túy, nhưng bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước, mà còn đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình và làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, bảo đảm đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và quá trình nhân thân: Bị cáo phạm tôi khi đang còn án tích theo Bản án số 53/2021/HS-ST ngày 05/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới nên lần phạm tội này được xác định là "Tái phạm"; Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt hành chính về các hành vi trộm cắp tài sản và xâm hại đến sức khỏe của người khác, 02 lần bị Tòa án xử phạt tù về tội "Trộm cắp tài sản" và 01 lần bị phạt tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được nêu ở trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo đã nhiều lần bị xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật, từng bị Tòa án áp dụng hình phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tự cải tạo và rèn luyện bản thân, mà còn cố ý tàng trữ ma tuý, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,976g ngay sau khi mới mãn hạn tù một thời gian ngắn. Điều này thể hiện là người khó cải tạo, ý thức chấp hành pháp luật thấp, nên cần áp dụng hình phạt tù với thời hạn đủ dài mới đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm ma túy trên địa bàn.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét Bị cáo hiện không có nghề nghiệp tạo thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Xét số ma túy còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành; vỏ bao gói hoàn trả sau giám định không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước và thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;
2. Về điều luật áp dụng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
3. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 02/12/2022).
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án (Theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử).
4. Về hình phạt bổ sung: Miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thành L.
5. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín có số 1302/KL-KTHS được niêm phong, bên trong phong bì chứa 1,763g (một phẩy bảy trăm sáu mươi ba gam) chất ma túy loại Methamphetamine và vỏ bao gói hoàn lại sau giám định.
(Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bố Trạch theo Biên bản giao nhận vật chứng được lập giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch ngày 05/5/2023).
6. Về án phí: Xử buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 10/5/2023)./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 38/2023/HS-ST
Số hiệu: | 38/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về