Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại Nhà văn hóa thôn BY, xã MB, thành phố YB, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Bàn Quang V, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20-10-1978, tại tỉnh Lào Cai; Nơi cư trú: Thôn BT, xã MB, thành phố YB, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn lớp: 12/12; Dân tộc: Dao; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bàn Phúc M (đã chết) và bà Bùi Thị K (sinh năm 1945); Vợ là Hoàng Thị M, sinh năm 1979 (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: không. Về nhân thân: Ngày 10-8-2009, bị Chủ tịch UBND huyện LY, tỉnh Yên Bái Quyết định về việc: Đưa người vào Trung tâm chữa bệnh – Giáo dục – Lao động tỉnh Yên Bái; Ngày 29-8-2016 và ngày 04-12-2018, bị Công an thành phố YB, tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính đều về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 15-01-2019 bị Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt từ ngày 17-02 - 2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái – Có mặt.

- Ngưi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị K, sinh năm 1945.

Địa chỉ: Thôn BT, xã MB, thành phố YB, tỉnh Yên Bái – vắng mặt;

- Người chứng kiến: Ông Trần Quốc B, sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ X, phường MT, thành phố YB, tỉnh Yên Bái – vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện chất ma túy, nên vào khoảng 12 giờ ngày 16-02-2022, V đi ra khu vực Công viên YH (thuộc tổ Y, phường NTH, thành phố YB, tỉnh Yên Bái) gặp và mua 01 gói Heroine của một người đàn ông khoảng 50 tuổi (V không biết tên, tuổi và địa chỉ) với giá 500.000đ, mục đích đem về để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được Heroine, V đem về chia ra thành 05 phần nhỏ và gói lại bằng nilon màu hồng, V đã sử dụng hết 01 gói còn lại 04 gói được gói lại bằng giấy (loại tờ lịch) để vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long, cất trong túi áo khoác đang mặc. Đến khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 17-02-2022, V đang đứng ở ven đường Kim Đồng (thuộc tổ F, phường MT, thành phố YB, tỉnh Yên Bái) thì bị tổ công tác Công an thành phố Yên Bái phát hiện và bắt quả tang thu giữ vật chứng gồm:

- 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long tại túi áo khoác bên trái V đang mặc, bên trong có 01 gói giấy in một mặt (loại tờ lịch) có chứa 04 gói ni lon màu hồng được hàn túm lại, trong các gói đều có chứa chất bột mầu trắng nghi là ma túy loại Heroine.

- Số tiền 260.000đ bên trong chiếc ví giả da mầu đen tại túi quần phía trước, bên phải V đang mặc.

- 01 chiếc điện thoại di động có chữ Iphone mầu xám – bạc đã qua sử dụng được lắp sim số: 0833.257.602;

- 01 ví giả da mầu đen đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân số:

0100.7800.2832 mang tên Bàn Quang V;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha mầu đỏ - đen - bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 21B1- 902.38 và 01 đăng ký xe mô tô số 108.452, mang tên Nguyễn Trường H.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái tiến hành khám xét khẩn cấp người, nơi ở, đồ vật đối với: Bàn Quang V tại thôn BT, xã MB, thành phố YB, không thu giữ tài sản, đồ vật gì.

Tại bản Kết luận giám định số: 132/KL-PC09 ngày 23-02-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

“Chất bột nén mầu trắng thu giữ khi bắt quả tang Bàn Quang V có khối lượng là 0,18 gam (không phẩy mười tám gam) gửi giám định là ma túy; loại Heroine." Bản Cáo trạng số 24/CT-VKS-TP ngày 09-5-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái truy tố Bàn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bàn Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo: từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không. Về vật chứng và tài sản thu giữ trong vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo khai báo thành khẩn, nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái, Điều tra viên, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 17-02-2022, tại khu vực tổ F, phường MT, thành phố YB, Bàn Quang V, đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,18 gam ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự trị an và gây hậu quả xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Vì vậy, cần đưa bị cáo ra xét xử nghiêm minh.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người nghiện chất ma túy, đã từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà vẫn cố ý thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật, ý thức tu dưỡng và rèn luyện bản thân của bị cáo là rất kém.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình tham gia tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, có m đ là người có công với Nước (bà Bùi Thị K được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba) nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù thỏa đáng để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng, đồ vật tài sản thu giữ:

- 01 Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, mầu đỏ- đen- bạc, BKS 21B1- 902.38; 01 Đăng ký xe mô tô số: 108452 mang tên Nguyễn Trường H, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Bùi Thị K là chủ sở hữu hợp pháp quản lý, sử dụng là phù hợp;

- 01 (một) chiếc điện thoại di động có chữ Iphone mầu xám bạc đã qua sử dụng, được lắp sim có số thuê bao: 0833.257.602 là tài sản hợp pháp của bà Bùi Thị K, cần được trả lại cho bà K.

- Đối với số ma túy thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Bàn Quang V, cơ quan điều tra đã sử dụng giám định hết 0,08 gam nên Hội đồng xét xử không xem xét. Số ma túy còn lại được niêm phong trong 01 phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành (sau khi đã trích mẫu giám định); 02 vỏ phong bì đã mở niêm phong, vỏ bao thuốc lá, các mảnh nilon gói xét có liên quan đến việc phạm tội hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

- Số tiền 260.000đồng; 01 ví giả da mầu đen đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân số: 0100.7800.2832 mang tên Bàn Quang V là tài sản, giấy tờ hợp pháp của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang, bị cáo khai mua người đàn ông khoảng 50 tuổi ở khu vực Công viên YH (thuộc tổ Y, phường NTH, thành phố YB, tỉnh Yên Bái) vào ngày 16-02-2022. Do V không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Yên Bái không đủ cơ sở điều tra, xác minh làm rõ.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên được chấp nhận.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bàn Quang V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Bàn Quang V 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17- 02-2022.

3. Về vật chứng, đồ vật, tài sản thu giữ: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy được niêm phong trong 01 (một) phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái phát hành, mặt trước phong bì có ghi: "Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Bàn Quang V ngày 17-02-2022 (sau khi trích mẫu giám định)", mặt sau phong bì các mép được dán kín, có họ tên và chữ ký của các thành phần niêm phong và 04 hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái; 02 (hai) vỏ phong bì đã mở niêm phong, vỏ bao thuốc lá, các mảnh nilon gói;

- Trả lại cho bà Bùi Thị K: 01 (một) chiếc điện thoại di động có chữ Iphone mầu xám bạc đã qua sử dụng, được lắp sim có số thuê bao: 0833.257.602, số seri: FFMR68WOG5MC.

- Trả lại cho bị cáo số tiền 260.000 (hai trăm sáu mươi nghìn) đồng được niêm phong trong 01(một) phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái phát hành, mặt trước phong bì có ghi: "Tiền thu giữ khi bắt quả tang Bàn Quang V, ngày 17-02-2022 (sau khi giám định)". Mặt sau phong bì các mép được dán kín, có họ tên và chữ ký của thành phần niêm phong và 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái; 01 (một) ví giả da mầu đen đã qua sử dụng; 01(một) căn cước công dân số: 0100.7800.2832 mang tên Bàn Quang V.

(Chi tiết đặc điểm vật chứng, đồ vật, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09-5-2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về