Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2023/TLST-HS, ngày 19 tháng 4 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2023/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐÌNH B, sinh ngày: 28/10/1989 tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn; Nơi ĐKHKTT: thôn L, xã T, huyên C, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá:05/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình T (Đã chết) và con bà Hoàng Thị L; Có vợ là: Lự Thị X (Đã chết) và có 01 (Một) con; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/3/2023 đến ngày 10/3/2023 được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nay tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 02/3/2023, tại khu vực đường rẽ ngã ba H, giáp ranh giữa xã H và xã T thuộc thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Công an xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn phát hiện Nguyễn Đình B có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại túi quần sau bên trái đang mặc trên người B có 01 gói nhựa nhỏ, bên trong chứa chất màu trắng dạng bột nghi là ma túy, tổ công tác niêm phong gói trên trong phong bì ký hiệu B.

Trên cơ sở đó, hồi 15 giờ ngày 03/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và công trình phụ cận của Nguyễn Đình B, kết quả: không phát hiện và tạm giữ đồ vật gì.

Tại phiếu xét nghiệm kiểm tra chất ma túy vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 02 tháng 3 năm 2023 thể hiện Nguyễn Đình B dương tính với chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi của mình về thời gian, địa điểm, số tiền dùng để mua ma tuý, số lượng ma tuý đã mua, tàng trữ. B khai nhận 01 gói nhỏ chất màu trắng dạng bột là ma túy, loại Heroine, là của B, có được là do vào sáng ngày 02/3/2023 B đi bộ từ nhà tại thôn L, xã T lên thành phố B để mua ma túy về sử dụng. Trên đường đi B đi nhờ xe của một người không quen biết đến khu vực thôn K, xã N, thành phố B thì gặp một người phụ nữ không quen biết và mua với người này 100.000đ được 01 gói nhỏ ma túy. Sau khi mua được ma túy B cất vào túi quần và đi bộ quay về nhà. Khi đi đến địa phận thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì bị cơ quan Công an bắt quả tang. Ngoài ra, số tiền sử dụng để mua ma túy là của B lao động mà có. Số ma túy trên B mua về mục đích sử dụng cho bản thân.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong thử phát hiện nhanh và cân xác định khối lượng chất ma túy hồi 15 giờ ngày 02/3/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xác định: chất màu trắng dạng bột trong phong bì ký hiệu B có khối lượng 0,128g (không phẩy một hai tám gam), toàn bộ số vật chứng được niêm phong trong phong bì B1 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 85/KL - KTHS ngày 08/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,128g (không phẩy một hai tám gam).

Tại bản cáo trạng số: 13/CT - VKSCM, ngày 16 tháng 4 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự.

* Điều luật có nội dung: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a)c) Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……”.

Tại phiên toà: * Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo B. Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51/BLHS: xử phạt bị cáo B từ 12 đến 15 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo B.

- Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) phong bì mặt trước có dòng chữ: “Que thử nhanh chất ma túy của Nguyễn Đình B NS: 1989”, mặt sau được dán kín bên trong có chứa 01 que test ma túy đã qua sử dụng; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu T51 và có dòng chữ: “Vụ: Nguyễn Đình B (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có 03 chữ ký không đọc được, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, bên trong có 0,085g Heroine và bao gói cũ; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu B2 và có dòng chữ: “Giấy gói cũ vụ: Nguyễn Đình B”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 01 (một) chữ ký “B”, 04 (bốn) chữ ký không đọc được, 05 dòng chữ: “Hoàng Văn T”, “Nguyễn Văn K”, “Nguyễn Đình B”, “Nông Văn T”, “Nguyễn Tiến Đ”, 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Mới, bên trong có phong bì và giấy gói cũ.

* Bị cáo B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như viện kiểm sát đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng quy định.

[2] Hồi 08 giờ 30 phút ngày 02/3/2023, tại khu vực đường rẽ ngã ba H, giáp ranh giữa xã T và xã H thuộc thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Nguyễn Đình B có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp trên người 01 (Một) gói nhỏ ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,128g (không phẩy một hai tám gam). Mục đích Nguyễn Đình B tàng trữ trái phép chất ma tuý là phục vụ nhu cầu sử dụng chất ma tuý của bản thân; ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Đình B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy:

Bị cáo B có nhân thân tốt: bản thân không có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Đình T được nhà nước thưởng huy chương - theo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51/BLHS.

[5] Vật chứng: 01 (Một) phong bì mặt trước có dòng chữ: “Que thử nhanh chất ma túy của Nguyễn Đình B NS: 1989”, mặt sau được dán kín bên trong có chứa 01 que test ma túy đã qua sử dụng; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu T51 và có dòng chữ: “Vụ: Nguyễn Đình B (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có 03 chữ ký không đọc được, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, bên trong có 0,085g Heroine và bao gói cũ; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu B2 và có dòng chữ: “Giấy gói cũ vụ: Nguyễn Đình B”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 01 (một) chữ ký “B”, 04 (bốn) chữ ký không đọc được, 05 dòng chữ: “Hoàng Văn T”, “Nguyễn Văn K”, “Nguyễn Đình B”, “Nông Văn T”, “Nguyễn Tiến Đ”, 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Mới, bên trong có phong bì và giấy gói cũ: tất cả không có giá trị, tịch thu tiêu huỷ.

[6] Về quan điểm truy tố và đề nghị của Viện kiểm sát: là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Đối với người phụ nữ đã bán ma tuý cho Nguyễn Đình B, quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý, xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không có tài sản, hộ nghèo, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung “phạt tiền” đối với bị cáo B.

[9] Bị cáo B thuộc hộ nghèo, có đơn xin miễn án phí, nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo B theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Đình B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51/BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Đình B: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 02/3/2023 đến ngày 10/3/2023.

[3] Vật chứng: Áp dụng điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) phong bì mặt trước có dòng chữ: “Que thử nhanh chất ma túy của Nguyễn Đình B NS: 1989”, mặt sau được dán kín bên trong có chứa 01 que test ma túy đã qua sử dụng; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu T51 và có dòng chữ: “Vụ: Nguyễn Đình B (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có 03 chữ ký không đọc được, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, bên trong có 0,085g Heroine và bao gói cũ; 01 (Một) phong bì mặt trước ký hiệu B2 và có dòng chữ: “Giấy gói cũ vụ: Nguyễn Đình B”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 01 (một) chữ ký “B”, 04 (bốn) chữ ký không đọc được, 05 dòng chữ: “Hoàng Văn T”, “Nguyễn Văn K”, “Nguyễn Đình B”, “Nông Văn T”, “Nguyễn Tiến Đ”, 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Mới, bên trong có phong bì và giấy gói cũ.

[4] Về án phí: Căn cứ các Điều 12, 15 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo B.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

[5] Quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về