Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31a/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H N, TỈNH N A

BẢN ÁN 31A/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2021 tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H N, tỉnh N A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2021 ngày 25 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

M T A, tên gọi khác: không; sinh ngày: 03/3/1971, tại: Huyện H N, tỉnh N A; nơi đăng ký HKTT: Xóm X, xã X, huyện H N, tỉnh N A; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: M T P (Đã chết); con bà: N T D, sinh năm 1952; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N A. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ ngày 06/06/2021, M T A đi xe ô tô khách lên huyện H S, tỉnh H T rồi đi bộ theo đường tiểu ngạch đến biên giới nước Việt Nam- Lào để mua ma túy về sử dụng. Trên đường đi lên biên giới, A gặp một người đàn ông người L khoảng 50 tuổi (A không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này). A biết tiếng L nên đã đã trao đổi với người đó về việc mua ma túy đá về sử dụng, người đó đồng ý và bán cho A 01 gói ma túy dạng đá được gói ngoài bằng bao potylen trong suốt với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, người đàn ông này đưa ra 02 bao potylen trong suốt, bên trong mỗi bao là ma túy heroin và hỏi A có mua hai gói heroin đó với giá 9.000.000 đồng không. Lúc này, A thấy số lượng ma túy nhiều mà giá rẻ, A nghĩ mua số ma túy heroin này về để sử dụng và khi ai đó có ma túy đá muốn đổi lấy heroin thì A đổi lấy ma túy đá để sử dụng nên đã đồng ý mua 02 gói heroin đó với giá 9.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, A cất dấu vào trong người và đi về nhà. Khi về nhà, A lấy bao potylen màu đen gói 02 bao potylen trong suốt, bên trong mỗi bao là ma túy heroin bỏ vào hộp nhựa trong suốt có nắp màu xanh cất dấu ở trong tủ sắt để trước sân nhà và lấy gói ma túy đá ra lấy một ít bỏ vào bao potylen trong suốt để ở giường xếp trong nhà sử dụng dần, số ma túy đá còn lại trong bao potylen cũ, cất dấu trong tủ lạnh ở gian nhà bếp. Nhận được phản A của Công an xã X, huyện H N tại nhà M T A có tàng trữ trái phép chất ma túy, vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, cơ quan CSĐT Công an huyện H N đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của A, phát hiện thu giữ: 01 gói chất tinh thể dạng rắn được gói ngoài bằng bao potylen trong suốt, kích thước (8x4) cm, thu giữ trên giường xếp tại gian giữa nhà chính; 01 gói chất tinh thể dạng rắn được gói ngoài bằng bao potylen trong suốt, kích thước (8x4) cm, thu giữ trong tủ lạnh để dưới gian nhà bếp; 02 gói chất bột màu trắng được gói ngoài bằng bao potylen trong suốt, phía ngoài mỗi bao đều được cột dây chun màu đen, phía ngoài cùng được bọc bao potylen màu đen thu giữ ở trong hộp nhựa trong suốt có nắp màu xanh để trong tủ sắt trước sân. Sau khi khám xét Cơ quan CSĐT đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với M T A.

Ngày 11/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện H N đã thành lập hội đồng mở niêm phong cân xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại số ma túy thu giữ của M T A. Sau khi loại bỏ bao bì, kết quả cân xác định khối lượng số chất tinh thể dạng rắn trong gói M1 là 0,665 gam, khối lượng số chất tinh thể dạng rắn trong gói M2 là 2,05 gam, khối lượng số chất bột màu trắng trong gói M3 là 38,04 gam, khối lượng số chất bột màu trắng trong gói M4 là 37,885 gam.

Tại Bản kết luận giám định 956/KL-PC09(Đ2- MT) ngày 15/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N A kết luận: Hai mẫu chất tinh thể dạng rắn (ký hiệu M1, M2) thu giữ của M T A gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine), có tổng khối lượng là 2,715 gam; Hai mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M3, M4) thu giữ của M T A gửi tới giám định đều là ma túy (Heroin), có tổng khối lượng là 75,925 gam.

Cáo trạng số 33/CT-VKS-HS ngày 01/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H N, tỉnh N A truy tố bị cáo M T A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo M T A đã khai nhận hành vi mà bị cáo thực hiện vào ngày 06/6/2021 giống như nội dung bản cáo trạng và nội dung vụ án như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo M T A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo M T A từ 13 năm đến 13 năm 6 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn Công an huyện H N, N A được niêm phong bên trong có chứa chất tinh thể dạng rắn được giám định là ma túy.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đã hối hận với hành vi phạm tội của mình, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H N, Viện kiểm sát nhân dân huyện H N, Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

Hi đồng xét xử xét thấy: Lời khai tại phiên tòa và lời khai trong quá trình điều tra của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với biên khám xét lập ngày 10/6/2021 và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, tại nhà ở của mình ở Xóm X, xã X, huyện H N, tinh N A, M T A bị Công an huyện H N phát hiện bắt giữ vì có hành vi tàng trữ 2,715 gam ma túy methampetamine và 75,925 gam ma túy heroin để sử dụng.

Căn cứ vào bản kết luận giám định số 956/KL-PC09(Đ2- MT) ngày 15/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N A thì: Hai mẫu chất tinh thể dạng rắn (ký hiệu M1, M2) thu giữ của M T A gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine), có tổng khối lượng là 2,715 gam; Hai mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M3, M4) thu giữ của M T A gửi tới giám định đều là ma túy (Heroin), có tổng khối lượng là 75,925 gam.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nên hành vi tàng trữ trái phép 2,715 gam ma túy (Methamphetamine); 75,925 gam ma túy (Heroin), nhằm mục đích sử dụng của bị cáo đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H N, tỉnh N A truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. ĐA giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Vụ án trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không chịu cai nghiện và tu dưỡng bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội. Hành vi tàng trữ 78,64 gam ma túy (Methamphetamine và heroin) của bị cáo nhằm mục đích sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo sẽ được áp dụng những tình tiết giảm nhẹ này khi Hội đồng xét xử quyết định hình phạt.

Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy lâu năm, sử dụng ma túy từ năm 2015 cho đến nay. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo. Mức án mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và nghiêm minh nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản; gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 phong bì thư Công văn Công an huyện H N, được niêm phong theo đúng quy định, mặt trước phong bì có ghi hàng chữ "gói niêm phong vật chứng thu giữ của M T A (1971) trú tại Xóm X, xã X, huyện H N, N A vào ngày 10/6/2021 tại Xóm X, xã X, huyện H N, N A. Sau khi mở niêm phong cân xác định trọng lượng lấy mẫu gửi đi giám định và niêm phong lại".

Xét thấy: Phong bì niêm phong dán kín bên trong là chất tinh thể dạng rắn, được giám định là Methamphetamin và heroin. Đây là vật chứng bị Nhà nước cấm tàng trữ trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

[6]. Trong vụ án này, đối với người đàn ông bán ma túy cho A, quá trình điều tra, Công an huyện H N không xác định được họ tên, địa chỉ, lý lịch cụ thể của người này nên không có căn cứ để xử lý.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo M T A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" Xử phạt: Bị cáo M T A 13 (Mười ba) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 10/6/2021.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư Công văn Công an huyện H N, được niêm phong theo đúng quy định, mặt trước phong bì có ghi hàng chữ "gói niêm phong vật chứng thu giữ của M T A (1971) trú tại Xóm X, xã X, huyện H N, N A vào ngày 10/6/2021 tại Xóm X, xã X, huyện H N, N A. Sau khi mở niêm phong cân xác định trọng lượng lấy mẫu gửi đi giám định và niêm phong lại".

(Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 06/8/2021 giữa Công an huyện H N và Chi cục thi hành án dân sự huyện H N).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo M T A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N A trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31a/2021/HS-ST

Số hiệu:31a/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về