Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 315/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 315/2021/HS-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 302/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 363/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hà Thị H - Sinh ngày 13/5/xxxx5, tại tỉnh T; Nơi cư trú: Tổ 40, khu 4A, phường C, TP. H, tỉnh N; Chỗ ở: Tổ 1, khu 5, phường Y, TP.

H, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Minh T (Đã chết) và bà: Bùi Thị H; Có chồng là: Phạm Tiến T; Có một con: Sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không có;

Bị cáo bị bắt ngày 04/8/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N, có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Vũ Văn T - sinh ngày 10/4/1996, tại tỉnh N; Nơi cư trú: Xóm 9, xã H, huyện H, tỉnh N; Chỗ ở: Tổ 1, khu 5, phường Y, TP.H, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Văn C và bà: Phạm Thị C (Đã chết); Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có;

Bị cáo bị bắt ngày 04/8/2021, hiện đang giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Thanh T – sinh năm xxxx2; Địa chỉ: Tổ 49, khu 5, phường C, TP.H, tỉnh N; Vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Trần Đức L - sinh năm xxxx7, vắng mặt;

2. Anh Nguyễn Đức L – sinh năm 1978, vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1978, vắng mặt;

4. Anh Trịnh Hồng P – sinh năm 1971, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Thị H và Vũ Văn T quen biết nhau ngoài xã hội từ khoảng giữa tháng 7 năm 2021, sau đó nảy sinh tình cảm và cùng chung sống với nhau tại phòng trọ của H ở tổ 1, khu 5, phường Y, TP. H, tỉnh N. Do có nhiều bạn bè cũng là người sử dụng ma túy đá và thường đến nhờ H mua hộ ma túy nên H và T đã bàn bạc, thống nhất với nhau do H không biết điều khiển xe máy nên khi có người đến nhờ mua hộ ma túy thì T sẽ điều khiển xe chở H đi mua ma túy, sau khi mua được ma túy thì H, T sẽ được người nhờ mua hộ cho sử dụng ma túy mà không mất tiền. Khoảng 20 giờ ngày 04/8/2021, khi H và T đang ở phòng trọ thì Trần Thanh T đi xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ, gắn BKS: 14K8 -69.. đến chơi. Khoảng 15 phút sau, khi cả 3 đang ở phòng trọ thì P (là bạn ngoài xã hội của H, H không biết đầy đủ tên tuổi, địa chỉ cụ thể của P, chỉ biết P nhà ở Hà Tu) đến phòng trọ. Lúc này, T đang nằm trên giường sử dụng điện thoại, H ngồi dưới đất đối diện vị trí T đang ngồi. P nói với H: “Chị lấy cho em túi năm” (Tức P nhờ H mua hộ túi ma túy đá với giá 500.000đồng) và đưa cho H số tiền 500.000đồng gồm 05 (năm) tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 100.000đồng, H đồng ý cầm tiền P đưa. T ngồi đối diện nên đã nghe thấy Phú nói chuyện với H và biết P nhờ H mua hộ ma túy. Sau đó, P đi ra khỏi phòng trọ đứng đợi. Lúc này, H gọi điện thoại cho C (là bạn ngoài xã hội với H, H chỉ biết tên là C và có số điện thoại là 0765.xxxx., còn tên tuổi, địa chỉ cụ thể của C ở đâu H không biết), H nói với C: “Anh lấy hộ em túi năm” (tức H nhờ C mua hộ túi ma túy đá với giá 500.000đồng), C đồng ý và hẹn H đến cổng khu vực Hồ Cô Tiên phía Lán Bè thuộc tổ 65, khu 5B, phường Bạch Đằng, TP.H để giao dịch mua bán ma túy. H quay sang nói với T đang nằm trên giường: “Anh T cho em mượn xe”, T đồng ý đưa chìa khóa xe cho H, H cầm chìa khóa đi ra cửa phòng đưa cho T và nói: “Chở chị đi lấy đồ”, do chứng kiến việc P và H nói chuyện với nhau nên T hiểu là chở H đi mua ma túy. T đồng ý điều khiển xe máy đưa H đến điểm hẹn. Tại đây, T và H đứng chờ khoảng 10 phút thì có một thanh niên lạ mặt đến gặp H (người này không phải C, T và H đều không biết người này) người thanh niên nói với H: “Có phải em đến lấy đồ không” (tức đến mua ma túy), H gật đầu xuống đứng cạnh xe máy, T vẫn ngồi trên xe, còn người thanh niên đứng cách nơi H và T khoảng 1 mét. Lúc này, T quay sang nhìn thì thấy H đưa cho người thanh niên số tiền 500.000đồng gồm 5 tờ tiền mệnh giá 100.000đồng, người thanh niên cầm tiền và đưa lại cho H một túi ma túy đá cùng với số tiền 100.000đồng và nói: “Anh cho lại em 100.000đồng”. H cầm túi ma túy và tiền người này đưa rồi cùng T quay trở về phòng trọ, số tiền này H cầm mục đích mang về phòng trọ trả lại cho P. Do ở khoảng cách gần nên T đã chứng kiến và nghe rõ toàn bộ quá trình giao dịch mua bán ma túy giữa H và người thanh niên. Trên đường về, H cất giấu túi ma túy đá vào trong lòng mũ bảo hiểm và đội trên đầu. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày khi H và T đi đến đầu ngõ vào phòng trọ thuộc tổ 1, khu 5, phường Yết Kiêu, TP.H thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ, thu toàn bộ vật chứng.

Khám xét khẩn cấp phòng thuê trọ của Hà Thị H và Vũ Văn T ở tổ 1, khu 5, phường Y, TP. H, tỉnh N, thu giữ tại tủ lạnh trong phòng trọ của H và T 01 bộ sử dụng ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số: 1472/KLGĐ ngày 10/8/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong 01 túi nilon ghi thu của Hà Thị H trong quá trình bắt quả tang là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,441gam.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Người làm chứng anh Trần Đức L, anh Nguyễn Đức L, anh Nguyễn Văn T, anh Trịnh Hồng P vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại Cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Trần Thanh T có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án, anh T khẳng định khi anh cho các bị cáo mượn xe mô tô, anh không biết các bị cáo sử dụng xe của anh để đi mua ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 304/CT- VKSHL ngày 04/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Hà Thị H và Vũ Văn T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; Riêng bị cáo H còn được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hà Thị H và Vũ Văn T, mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/8/2021.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đề nghị tiêu hủy vật chứng là số ma túy còn lại sau giám định; 01 chiếc mũ bảo hiểm màu xanh, trên mũ có chữ ADIDAS; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, trong gắn sim thuê bao 0396.306.xxx và số tiền 100.000đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa các bị cáo Hà Thị H và Vũ Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H lập hồi 21 giờ 50 phút ngày 04/8/2021 đối với Vũ Văn T và Hà Thị H, phù hợp với Kết luận giám định số 1472/KLGĐ ngày 10/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 30 phút ngày 04/8/2021, tại khu vực thuộc tổ 1, khu 5, phường Yết Kiêu, TP. H, tỉnh N, Hà Thị H và Vũ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,441gam ma túy, loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Hà Thị H và Vũ Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý về ma tuý của Nhà nước. Các bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma tuý bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình vi phạm. Vì vậy cần tuyên cho các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

- Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đều là người sử dụng ma túy;

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo H có bố đẻ là ông Hà Minh Thuấn được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhì và Huân chương chiến sĩ vẻ vang Hạng Ba nên bị cáo H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về vai trò: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người khởi xướng, đi tìm nguồn mua ma túy nên giữ vai trò đầu, tiếp đến bị cáo T là người cùng tiếp nhận thông tin, là người tiếp tay chở H đi mua ma túy nên giữ vai trò sau H.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo, khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, nhưng dù có xem xét giảm nhẹ hình phạt đến đâu thì việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết. Đối với H mặc dù là người khởi xướng, xong H còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần xem xét cho H mức án tương ứng với bị cáo T là hợp lý.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy thu giữ của H và T sau giám định hoàn lại còn 0,38 (Không phẩy ba mươi tám gam) Methamphetamine, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh đã qua sử dụng, trong gắn sim thuê bao 0396.306.xxx thu giữ của bị cáo H, là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 100.000đồng thu của H do H đi mua ma túy, người bán ma túy cho lại bị cáo, xác định đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- 01 chiếc mũ bảo hiểm màu xanh, đã qua sử dụng, trên mũ có chữ ADIDAS, và 01 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, hiện không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ, đã qua sử dụng có gắn biển số 14K8-xxxx cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu là anh Trần Thanh Tú nên không đề cập lại.

[9] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, điều khoản truy tố, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông tên C dùng điện thoại có số thuê bao 0765.xxxx. theo Hà Thị H khai là người đã bán ma túy, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu số thuê bao 0765.xxxx. là của Vũ Hoài N, sinh năm xxxx6, trú tại: Tổ 4, khu 7, phường H, TP. H, tỉnh N, hiện Nam không có mặt tại gia đình và địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, ra quyết định tách vụ án để tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17;

Điều 58 của Bộ luật hình sự; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Hà Thị H còn được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố : Bị cáo Hà Thị H và bị cáo Vũ Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt: 1. Bị cáo Hà Thị H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/8/2021.

2. Bị cáo Vũ Văn T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/8/2021.

- Về xử lý vật chứng : Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 100.000đồng (Theo Biên lai thu tiền số 0000413 ngày 24/11/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh N).

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,38gam Methamphetamin mẫu vật hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì còn nguyên niêm phong số 1472/KLGĐ ngày 10/8/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N; 01 chiếc mũ bảo hiểm màu xanh, kiểu dáng mũ lưỡi chai có chữ ADIDAS đã qua sử dụng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá đã qua sử dụng (Gồm 01 ống thủy tinh có 1 đầu hình tròn, một ống hút nhựa và một bình thủy tinh hình đầu lâu).

+ Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh (máy không lên nguồn nên không kiểm tra được chất lượng máy) kèm 01 sim thuê bao 0396.306.xxx.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 45/BB-THA ngày 18/11/2021 giữa Công an thành phố H và Chi cục thi hành án thành phố H).

- Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Hà Thị H và Vũ Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 315/2021/HS-ST

Số hiệu:315/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về