Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 313/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 313/2022/HS-PT NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại điểm cầu trực tuyến trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu trực tuyến thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 251/2022/TLPT-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo A B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; do bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 09/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum bị kháng cáo.

* Bị cáo có kháng cáo:

A B; (Tên gọi khác: Không); sinh năm: 1995; Nơi cư trú: Thôn Đ1, xã P, huyện N1, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Ka Dong; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: AL, sinh năm 1963; mẹ: YN, sinh năm 1963; vợ là YN1, sinh năm: 1996; bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2017 nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12 tháng 10 năm 2020 cho đến nay. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đinh Văn H - Luật sư Văn phòng Luật sư Văn H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Hoài Q - Luật sư Công ty Luật TNHH S thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Nông. Có mặt.

Người phiên dịch: Ông AL. Địa chỉ: Thôn Đ1, xã P, huyện N1, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt; do bị cáo nói nghe được tiếng Kinh.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và người liên quan khác nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/10/2020, Công an huyện N1 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc phát hiện đối tượng A B (sinh năm 1995, cư trú tại thôn Đ1, xã P, huyện N1, tỉnh Kon Tum) nghi vấn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cử tổ công tác kiểm tra, xác minh. Khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, tổ công tác Công an huyện N1 phối hợp cùng với Công an xã P đến làm việc tại nhà của AB. Sau khi được giải thích và vận động thì A B đã tự nguyện khai báo trong căn nhà của ông AU là bố vợ của A B và tự chỉ ra chỗ cất giấu ma túy ở phòng ngủ thứ ba của căn nhà và lấy một thùng giấy các tông có chữ “QUẠT ĐIỆN CAO CẤP - Natifan” để ở góc tường cạnh hai bao lúa, bên trong có 13 (mười ba) gói ni lông trong suốt, bên trong đều chứa chất tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy) và chỉ ra một số vật dụng đựng ma túy khác Tổ công tác và công an xã P đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo A B.

Quá trình điều tra ban đầu, bị cáo A B khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 ngày 05/10/2020, khi A B đang ở nhà thì có AĐ cùng trú tại thôn Đl, xã P, huyện N1 có qua nhà và mang theo một túi ni lông màu đen, AĐ có nhờ A B cất giữ túi ni lông đó và nói: “Khi nào AĐ qua lấy sẽ cho A B tiền”, A B đồng ý cho AĐ cất giữ túi ni lông đó và A B lấy chìa khóa mở cửa nhà ông AU là bố vợ của A B (ở ngay sát nhà A B) để AĐ mang túi ni lông vào cất giấu tại phòng ngủ thứ ba của căn nhà. AĐ mở bì ni lông màu đen ra bên trong có: 03 (ba) gói ni lông màu sắc sặc sỡ trong đó 02 (hai) gói chứa ma túy, 01 (một) gói không chứa gì; 01 (một) cân tiểu ly màu đen và một số bì ni lông nhỏ trong suốt và các sợi dây cao su màu vàng. Sau đó AĐ có nhờ A B cùng phụ giúp chia nhỏ số ma túy ra thành khoảng 20 (hai mươi) bì, mỗi bì khoảng 100 gam rồi bỏ vào bì ni lông đen buộc lại, bỏ vào thùng các tông rồi để cạnh hai bao đựng lúa ở góc phòng ngủ, A B dọn dẹp lại phòng rồi lấy ba bì ni lông màu sắc sặc sỡ bỏ vào một bao xác rắn màu vàng buộc lại và để cạnh cửa sổ, AĐ đi về còn A B khóa cửa lại. Sau đó vào khoảng 20; 21 giờ các ngày: 07; 08; 09 tháng 10/2020, AĐ đi xe máy qua nhà A B và nói A B mở của nhà bố vợ AU để AĐ đi vào nhà lấy ma túy, A B chỉ đứng ngoài còn AĐ vào nhà lấy ma túy, lấy bao nhiêu, sử dụng như thế nào A B không biết, AĐ đi thì A B khóa cửa nhà lại, sau đó AĐ có đưa tiền cho A B ba lần, lần 01: 3.000.000đ (ba triệu đồng), lần 02: 2.000.000đ (hai triệu đồng), lần 03: 1.000.000đ (một triệu đồng), tổng cộng là 6.000.000đ (sáu triệu đồng). Đến 21 giờ 30 ngày 11/10/2020 Công an huyện N1 đến nhà giải thích, vận động nên A B đã tự nguyện giao nộp số ma túy còn lại mà AĐ nhờ cất giấu ở nhà bố vợ AU.

Sau đó, bị can A B thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi cất giấu giùm ma túy cho AĐ, không biết nguồn gốc số ma túy trên từ đâu mà có ở trong nhà bố vợ AU.

- Ngày 12/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N1 đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 135 để giám định toàn bộ số chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ được khi bắt quả tang A B. Tại bản kết luận giám định số: 209/KLGĐ-PC09 ngày 14/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum, kết luận:

“Mu chất tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu M1; M2; M3; M4; M5; M6; M7; M8; M9; M10; M11; M12; M13) được niêm phong trong hộp giấy gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng: 1212,293 gam, là loại: Methamphetamine.”bút lục 63.

- Ngày 19/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 31/TCGĐ-CSMT để giám định ADN trên các tang vật thu giữ được khi bắt quả tang A B có AND của AĐ hay không?. Tại bản kết luận giám định số: 1239/C09C-Đ3 ngày 18/12/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:

“Trên túi ni lông màu vàng và trên 04 (bn) túi ni lông trong suốt, có cột dây cao su màu vàng bên ngoài có AND của cùng một người nam giới khác, không phải là AĐ. Trên các mẫu còn lại không có AND người”. Bút lục 75.

- Ngày 06/08/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số: 04/TCGĐBS-CSMT, để giám định: ADN trên túi ni lông màu vàng và trên 04 (bổn) túi ni lông trong suốt, có cột dây cao su màu vàng theo Kết luận giám định số: 1239/C09C-Đ3 ngày 18/12/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng có phải của A B hay không? Tại bản kết luận giám định số: 994/C09C-Đ3 ngày 16/08/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:

ADN trên túi ni lông màu vàng và trên 04 (bn) túi ni lông trong suốt, có cột dây cao su màu vàng theo Kết luận giám định số: 1239/C09C-Đ3 ngày 18/12/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng là của A B”. Bút lục 86.

* Vật chứng Cơ quan cảnh sát điều tra đã tạm giữ:

- 01 (một) thùng các tông dán giấy trắng, bên trong chứa mẫu vật sau khi trích giám định bao gồm 1212,293 gam Methamphetamine;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số seri (IMEL): 357698105279186 đã qua sử dụng; 15.000đ (mười năm nghìn đồng - 01 (một) thùng giấy các tông, trên thùng có in chữ “QUẠT ĐIỆN CAO CẤP - Natifan”; 01 (một) túi ni lông màu đen, có quai xách; 01 (một) cân tiểu li màu đen, phía trên chữ màu trắng “POCKET SCALE”, trên cân có 04 nút bấm hình tròn, lần lượt trên các nút có chữ “U”, “N”, “T”, “I”; 01 (một) túi ni lông màu vàng, đã rách một phần, bên trong có 49 (bốn mươi chín) túi ni lông trong suốt kích thước giống nhau dài 18cm, rộng 8,8cm và 36 (ba mươi sáu) sợi dây cao su màu vàng, dạng hình tròn;

- 01 (một) bao tải màu vàng, trên có in chữ “ĐẠI LÝ GẠO TUYẾT TRỰC”, dài 71 cm, rộng 46,5cm. Bên trong bao tải có 3 (ba) túi ni lông màu sắc sặc sỡ, bên ngoài có in chữ “GUANYINWANG”, số “888” và các chữ nước ngoài; 01 (một) mảnh ni lông màu xanh dán băng keo màu vàng ở một mặt; 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có; 07 (bày) túi ni lông trong suốt, một đầu đã bị cắt bỏ; 04 (bổn) túi ni lông trong suốt, có cột dây cao su màu vàng bên ngoài; 02 (hai) túi ni lông trong suốt, dài 18cm, rộng 8,8cm; 07 (bảy) mảnh ni lông trong suốt, một đầu có quấn dây cao su màu vàng; 02 (hai) sợi dây cao su màu vàng đã quấn lại thành cục; Mẫu tóc ghi thu của AĐ còn lại sau giám định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HSST ngày 09/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo A B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b khoản 4 Điều 249; khoản 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo A B tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12 tháng 10 năm 2020 Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/5/2022, bị cáo A B kháng cáo cho rằng còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ, cần phải xem xét lại.

Ngày 23/5/2022, bị cáo A B kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Bị cáo cho rằng người đưa túi ma túy cho bị cáo là AĐ, bị cáo không biết trong đó có gì. Tuy nhiên Tòa án không xét xử AĐ là không đúng sự thật khách quan của vụ án. Do vậy bị cáo đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo A B vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm, xét xử lại vụ án để làm rõ một số vấn đề mà cấp sơ thẩm chưa làm rõ vì bị cáo không biết trong túi AĐ đưa là ma túy. Đề nghị làm rõ cho đúng người đúng tội, ai là người có tội phải được xem xét xử lý.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Quá trình điều tra đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo; đã đủ cơ sở đưa ra xét xử. Bản án sơ thẩm xử bị cáo mức hình phạt chung thân là có căn cứ. Tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết nào mới; do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HSST ngày 09/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Luật sư Đinh Văn H và luật sư Phạm Hoài Q bào chữa cho bị cáo A B nêu quan điểm: Đề nghị HĐXX hủy án sơ thẩm để điều tra lại vì vi phạm thủ tục tố tụng, cụ thể: Cơ quan điều tra chưa tiến hành đối chất giữa bị cáo với các nhân chứng trong vụ án; quá trình tiến hành thu mẫu sinh học của bị cáo nhưng không có mẫu để so sánh. Các nhân chứng như ông Đinh Văn Th, Đinh Văn T2 khai là biết A B cất giữ ma túy, nhưng qua hai phiên tòa sơ thẩm ông Thân ông Tường khẳng định là không có chứng kiến khám xét A B cất giữ ma túy. Kết luận điều tra cho rằng ADN của bị cáo A B có trong 4 túi ni lông là của A B, nhưng ADN này có từ đâu ra và được thu thập từ đâu, cũng như không có mẫu ADN của A B để so sánh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo A B không thừa nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại hồ sơ phù hợp với lời khai của những người làm chứng, của những người có liên quan tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập. Nhu vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09h00 ngày 05/10/2020, nghe lời người hàng xóm là AĐ nên bị cáo A B đã cất giấu giùm AĐ trong nhà bố vợ là ông AU 01 túi ni lông bên trong có gói ma túy; đồng thời giúp AĐ chia nhỏ ra và nhận tiền công 6.000.000đ. Lúc 21h30 ngày 11/10/2020, Công an đến vận động A B giao nộp số ma túy trên, với kết quả giám định có khối lượng là 1.212,293 gam ma túy tổng hợp loại Methamphetamine. Với hành vi và hậu quả như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo A B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 BLHS “phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân ...b) Heroin, Cocaine, methamphetamine...có khối lượng 100 gam trở lên”. Bị cáo A B phạm tội gấp hơn 12 lần số lượng quy định và bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù chung thân là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo không chấp nhận hành vi phạm tội của bị cáo; HĐXX thấy rằng: Mặc dù tại phiên tòa hôm nay, bị cáo A B thay đổi lời khai lúc thì cho rằng ma túy của AĐ giao cho bị cáo tại sao cơ quan pháp luật không xử lý AĐ; lúc thì bị cáo cho rằng bị cáo không có hành vi cất giữ ma túy. Tuy nhiên căn cứ vào các chứng cứ thu thập được như: Biên bản phạm tội quả tang ngày 11/10/2020 (BL 54-57) bị cáo A B đã khai là tự mình cất giữ ma túy; biên bản lấy lời khai ngày 12/10/2020 (BL 98-101) bị cáo A B khai là AĐ điều khiển xe ô tô mang ma túy đến nhờ A B cất giữ; bị cáo còn khai nhận là tối 11/10/2020 Công an huyện N1 đã vận động và tôi đã tự nguyện khai báo chỗ cất giấu số ma túy như trên; lời khai của những người làm chứng (BL 183-184) đều khẳng định A B đã tự nguyện khai báo cất giấu số ma túy như trên. Ngoài ra cơ quan điều tra cũng đã thu giữ dấu vết sinh học trên 04 túi ni lông chứa chất ma túy và mẫu tóc của bị cáo A B, kết quả là ADN trên 2 mẫu này đều là của A B.

[3] Do nhận thức của bị cáo cho rằng cần phải điều tra làm rõ; tuy nhiên đối với AĐ cơ quan điều tra đang tiến hành xác minh thu thập truy tìm nguồn gốc ma túy để xử lý sau. Trong vụ án này A B đã thừa nhận chỗ cất giấu ma túy giùm cho AĐ, nên hành vi phạm tội bị bắt quả tang của A B đã rõ, cần phải xử lý kịp thời nghiêm minh đúng pháp luật. Do vậy không có căn cứ để hủy án trả hồ sơ để điều tra bổ sung như bị cáo và các luật sư bào chữa đề nghị.

[4] Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù bị cáo và các luật sư không đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt; nhưng HĐXX vẫn xem xét và nhận thấy: Bị cáo A B không được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ nào theo điểm b khoản 1 Điều 51; chỉ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” theo khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo tù chung thân là phù hợp với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Quá trình tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới; do vậy, HĐXX chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo A B; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HSST ngày 09/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Tuyên bố: Bị cáo A B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b khoản 4 Điều 249; khoản 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo A B tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12 tháng 10 năm 2020

2. Án phí phúc thẩm: Bị cáo A B phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (12/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 313/2022/HS-PT

Số hiệu:313/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về