Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2023/TLHS-ST ngày 16 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Đỗ Văn H, sinh ngày 01/01/1980 tại xã XT, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 7, xã XT, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; nghề ngH: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn H, sinh năm 1951 (đã chết) và bà Đặng Thị H, sinh năm 1953; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1980 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2003;

Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 09/9/2020, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 15/9/2022.

Nhân thân:

- Ngày 16/4/2007, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 22/8/2007.

- Ngày 02/4/2008, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 30/01/2009.

- Ngày 25/02/2014, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 29/01/2016.

- Ngày 14/11/2018, bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 01/8/2019.

Bị tạm giữ từ ngày 30/12/2022 đến ngày 08/01/2023 chuyển tạm giam;

“có mặt”.

- Người chứng kiến: Ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1965; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/12/2022, Đỗ Văn H một mình đi bộ từ nhà ở đội 7, xã XT đến khu vực đội 3, xã XT để tìm mua ma tuý sử dụng cho bản thân. Đến nơi, H gặp một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ. Qua dò hỏi biết người này có ma tuý bán, H hỏi mua 100.000 đồng Heroine, người đàn ông đồng ý, nhận tiền rồi đưa lại cho H 01 gói nhỏ, bên ngoài gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. H xác định là Heroine, cầm ở tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 06 giờ 50 phút cùng ngày, khi H đang đi trên đường thuộc khu vực đội 3, xã XT thì bị Tổ công tác Công an xã XT làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra. H tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nhỏ vừa mua và khai là Heroine. Tổ công tác đã mời người chứng kiến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 01 gói nhỏ H nộp ký hiệu là M. Tổ công tác đã giao Đỗ Văn H cùng toàn bộ tài liệu vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường điều tra theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Văn H nhưng không thu giữ tài liệu, chứng cứ gì.

Tại bản kết luận giám định số 187/KL-KTHS ngày 06/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy bạc màu vàng, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,112 gam Bản cáo trạng số 18/CT-VKSXT ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2022.

Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, cho tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số Heroine thu giữ cùng các tài liệu khác đã được lưu trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 30/12/2022, tại khu vực đội 3, xã XT, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Đỗ Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,112 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn mua bán, sử dụng trái phép chất ma tuý, một hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm như: Trộm cắp tài sản, cướp tài sản,... làm tan vỡ hạnh phúc bao gia đình. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; là người nghiện ma túy nên bị cáo đã thấu hiểu được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật hình sự để răn đe và phòng ngừa.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới có tác dụng trừng trị, giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranhh phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma tuý nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số Heroine Cơ quan điều tra đã thu giữ trong vụ án là vật cấm lưu hành xét cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đỗ Văn H, H khai không biết tên tuổi, địa chỉ, ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2022.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số 187/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 34/CCTHA ngày 21/3/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Đỗ Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về