Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 310/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 310/2021/HS-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, thành phố H đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 306/2021/TLST – HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/2021/QĐ - TA ngày 06 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 2002 tại N; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký NKTT: xã K, huyện Yên Thành, tỉnh N; Chỗ ở trước khi phạm tội: phường P, quận B, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do (Phụ xe); Con ông: Nguyễn Văn B (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị N1, sinh năm: 1966; Làm ruộng; Tiền án, Tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 490, do Công an quận B lập ngày 13/10/2021; Bị bắt quả tang, giam giữ từ ngày 05/10/2021; Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số 1 – Công an thành phố H; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1990; Nơi cư trú: xã K, huyện Yên Thành, tỉnh N; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 05/10/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá, bị cáo Nguyễn Văn N điều khiển xe máy Honda Wave màu đen bạc mang BKS 37P1-xxxxx đến khu vực cổng Công viên Hòa Bình mua của một nam thanh niên (không rõ nhân thân) 300.000 đồng. Ma túy được để trong một gói nilon màu trắng kích thước (2,5x2,5)cm. Mua xong ma túy, khoảng 18 giờ 30 phút, bị cáo đi đến phường X, quận B, thành phố H thì bị Tổ công tác Công an phường X kiểm tra hành chính, bắt quả tang cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ: Một túi nilong màu trắng, kích thước (2,5x2,5)cm, có in chữ Pentel màu xanh, bên trong chứa tinh thể màu trắng; Một xe máy Honda Wave màu đen bạc, mang biển kiểm soát 37P1-xxxxx, số máy: JA39E1573306, số khung: RLHJA391XLY235459; Một đăng ký xe máy số 072340 mang tên Nguyễn Văn N Một điện thoại di động kiểu dáng Realme màu ghi, sim số thuê bao: 0375042xxx. Tại Kết luận giám định số 7357/KLGĐ – PC09 ngày 13/10/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong có in chữ Pentel màu xanh là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,196 gam.

Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu đối với bị cáo Nguyễn Văn N cho kết quả âm tính-không sử dụng chất ma túy.

Chiếc xe máy mang BKS 37P1-xxxxx đăng ký xe mang tên bị cáo, không có trong dữ liệu xe máy vật chứng. Anh Nguyễn Văn M – anh trai bị cáo khai: Chiếc xe máy trên là do anh bỏ tiền ra mua, cho bị cáo mượn để đi làm và cho bị cáo đứng tên đăng ký xe để tiện việc đi lại. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy anh không biết. Anh M đề nghị được xin lại xe.

Tại Cáo trạng số 301/CT-VKS ngày 30/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N mức án từ 12 - 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy số ma túy; Tịch thu sung quỹ một chiếc xe máy Honda Wave màu đen bạc, BKS 37P1-xxxxx, số máy: JA39E1573306, số khung: RLHJA391XLY235459 thu giữ của bị cáo; Trả lại cho bị cáo điện thoại di động Realme màu ghi lắp số sim: 0375042xxx;

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 05/10/2021, tại trước cửa nhà số 1, ngõ 187 đường X, quận B, thành phố H, bị cáo Nguyễn Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,196 gam ma túy loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết ma túy bị cáo tàng trữ là chất gây nghiện, làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tinh thần, thể chất của người sử dụng, là mầm mống gây ra nhiều loại tội phạm. Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo vẫn mua và tàng trữ để sử dụng trái phép.

[3]. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, lần đầu vi phạm pháp luật và bị đưa ra xét xử. Gia đình bị cáo đang phụng dưỡng mẹ liệt sĩ (Bà nội bị cáo). Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt - Hình phạt chính: Đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt tù, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

- Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Vật chứng vụ án:

- 0,196gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện, bị nhà nước cấm lưu hành không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động Realme màu ghi lắp sim số 0375042xxx là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

- Chiếc xe máy Honda Wave mang BKS 37P1-xxxxx thu giữ của bị cáo N, đăng ký chủ sở hữu là bị cáo. Anh M khai xe máy trên là do anh bỏ tiền ra mua và cho bị cáo đứng tên chủ sở hữu, cho bị cáo mượn để đi làm và đề nghị Tòa án trả lại xe cho anh. Tuy nhiên Anh M không đưa ra được các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc anh bỏ tiền mua xe máy vậy nên không có căn cứ xác định Anh M là chủ sở hữu nên không có căn cứ trả lại chiếc xe máy trên cho Anh M. Chiếc xe máy trên là tài sản của bị cáo, bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ.

[6]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và mức án phí phải nộp theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[7]. Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, cơ quan Cảnh sát điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, trình tự, thủ tục, đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Điều luật áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.

3. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

4. Các vấn đề khác 4.1. Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của bị cáo, cán bộ công an phường và giám định viên; Tịch thu sung quỹ một xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc biển kiểm soát: 37P1-xxxxx có số khung: RLHJA391XLY235459, số máy: JA39E1573306; Trả lại cho bị cáo điện thoại di động kiểu dáng Realme màu ghi, lắp sim số thuê bao 0375042xxx. Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 63/22 ngày 08/12/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận B.

4.2. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4.3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 310/2021/HS-ST

Số hiệu:310/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về