TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 18/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Tòa án nhân dân huyện Đắk Song mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/HSST, ngày 15 tháng 06 năm 2023; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Xuân T, sinh năm 1967 tại Nam Định; Trú tại: Tổ dân phố B, TT Đ A huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông Trần Văn T (Đã chết) và bà Đinh Thị H, sinh năm 1937; bị cáo có vợ là Dương Thị L, sinh năm 1968 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền sự: không;
Tiền án: 03 tiền án;
Ngày 31/10/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (theo Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2006/HSST). Bị cáo kháng cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 270/2007/HSPT ngày 23/01/2007 của Tòa án Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 14/6/2011, bị cáo chấp hành xong án hình phạt tù.
Ngày 27/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Hủy hoại rừng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 189 Bộ luật hình sự năm 1999 (theo Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2013/HSST). Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp Tái phạm. Ngày 28/4/2015, chấp hành xong hình phạt tù. Về phần trách nhiệm dân sự bị cáo chưa chấp hành xong.
Ngày 24/01/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm xử phạt 07 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (theo Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2018/HSST). Ngày 07/10/2022, chấp hành xong hình phạt tù. Đối với phần phần trách nhiệm dân sự theo Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2013/HSST ngày 27/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông thì bị cáo chưa chấp hành xong phần trách nhiệm dân sự nên chưa được xóa án tích theo quy định. Tại thời điểm bị cáo phạm tội ngày 22/02/2023 chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/02/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông – Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 22/02/2023, trong lúc đang ở nhà thì Trần Xuân T nhận được điện thoại từ số 0866958X của đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đề nghị muốn góp tiền với T để mua ma túy về sử dụng thì được T đồng ý. Khoảng 10 phút sau H đến nhà đưa cho T số tiến 1.700.000 đồng để mua ma túy. Sau khi nhận tiền T nói với Hùng khi nào mua được hàng (nghĩa là ma túy) thì gọi H đến lấy đồng thời T lấy 1.000.000 đồng của mình góp vào để mua ma túy với tổng số tiền là 2.700.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS 48F1-127X của mình đến khu vực thôn T, xã T X, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông và đứng đợi được khoảng 15 phút thì có một đối tượng đeo khẩu trang đi đến giới thiệu tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) và hỏi T cần hàng không (nghĩa là ma túy) thì T nói có đồng thời đưa cho Tr số tiền 2.700.000 đồng để Tr đi lấy ma túy, được khoảng 30 phút sau Tr quay lại và đưa cho T 01 gói giấy bạc bên trong có chứa chất ma túy, T cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác phía dưới, đằng trước bên phải mà T đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi đến địa phận thuộc thôn C, xã N J, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì thấy H đang đứng đợi ở lề đường Quốc lộ 14 nên T dừng xe rồi cùng H đi vào một bãi đất trống gần đó, T lấy ma túy từ trong túi áo khoác của mình ra và chia cho H một phần, H nhận phần ma túy rồi đi về hướng thành phố G N, tỉnh Đắk Nông. Còn T cất gói ma túy vào trong túi áo khoác, phía trước bên phải đang mặc và điều khiển xe về nhà, khi đến khu vực thuộc thôn C, xã N J, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Công an xã Đ R và xã N J phối hợp kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 51/KL-KTHS ngày 27/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc được niêm phong trong bì gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có tên khoa học là Diacetymorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; có khối lượng mẫu là 0,6608 gam; Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại Cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng là 0,6112 gam
Về vật chứng của vụ án:
Đối với 0,6112 gam heroin hoàn lại sau giám định; 01 cái dao lam đã qua sử dụng; 01 vỏ gói thuốc lá, trên gói thuốc có ghi chữ JET do không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda biển kiểm soát 48F1-127X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 008896 mang tên Trần Xuân T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng cùng 01 sim điện thoại số 0367.748.X là các công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS-ĐS ngày 15 tháng 6 năm 2023 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song truy tố bị cáo Trần Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông truy tố là đúng, không oan.
Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 22/02/2023, trong lúc đang ở nhà thì Trần Xuân T nhận được điện thoại số 0866958X của đối tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đề nghị góp tiền mua ma túy về để sử dụng thì T đồng ý. Khoảng 10 phút sau, H đến nhà đưa cho T số tiền 1.700.000 đồng và T cũng góp 1.000.000 đồng của mình vào để mua ma túy với tổng số tiền là 2.700.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS 48F1-127X đi đến khu vực thôn T, xã Tr X, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông gặp đối tượng tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) và đưa cho Trường số tiền 2.700.000 đồng thì được Tr đưa cho T 01 gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn C, xã N J, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì thấy H đứng đợi ở lề đường Quốc lộ 14 nên T dừng xe lại và chia cho H một phần ma túy. Sau đó T cất gói phần ma túy còn lại vào trong túi áo khoác rồi đi về nhà thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng là 0,6608 gam herôin.
Hành vi của bị cáo Trần Xuân T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Xuân T từ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 06 (Sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/02/2023.
* Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Cần tịch thu tiêu hủy: 0,6112 gam heroin hoàn lại sau giám định; 01 cái dao lam đã qua sử dụng; 01 vỏ gói thuốc lá, trên gói thuốc có ghi chữ JET do không còn giá trị sử dụng Cần tịch thu sung ngân sách Nhà Nước: 01 xe mô tô hiệu Honda biển kiểm soát 48F1-127X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 008896 mang tên Trần Xuân T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng cùng 01 sim điện thoại số 0367.748.X là các công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội Phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 22/02/2023, trong lúc đang ở nhà tại tổ dân phố B, thị trấn Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì Trần Xuân T nhận được điện thoại số 0866958X của đối tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đề nghị góp tiền mua ma túy về để sử dụng thì T đồng ý. Khoảng 10 phút sau, H đến nhà đưa cho T số tiền 1.700.000 đồng và T cũng góp 1.000.000 đồng của mình vào để mua ma túy với tổng số tiền là 2.700.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS 48F1-127X đi đến khu vực thôn T, xã Tr X, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông gặp đối tượng tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) và đưa cho Tr số tiền 2.700.000 đồng thì được Tr đưa cho T 01 gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy. Sau khi nhận ma túy xong T cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác phía dưới, đằng trước bên phải mà T đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn C, xã N J, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì thấy H đứng đợi ở lề đường Quốc lộ 14 nên T dừng xe lại và chia cho H một phần ma túy. Sau đó T cất gói phần ma túy còn lại vào trong túi áo khoác, phía trước bên phải đang mặc rồi tiếp tục điều khiển xe về nhà, khi đến khu vực thuộc thôn C, xã N J, huyện Đ S, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang;
Tại bản kết luận giám định số 51/KL-KTHS ngày 27/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc được niêm phong trong bì gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có tên khoa học là Diacetymorphine, có khối lượng mẫu là 0,6608 gam; Hoàn lại sau giám định có khối lượng là 0,6112 gam.
Bị cáo Trần Xuân T trước đó đã bị Tòa án xét xử về các tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”; tội “ Hủy hoại rừng” và tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuy” chưa được xóa án tích. Ngày 22/02/2023 bị cáo T lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo T phạm tội trong trường hợp Tái phạm nguy hiểm.
Hành vi của bị cáo Trần Xuân T đã đủ yếu tố cầu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS quy định:
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a).........
...” c) Heroine, Cocaine, …….. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
..
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm a) … … o) Tái phạm nguy hiểm [3] Xét hành vi của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trong, hành vi đó đã xâm phạm vào chính sách về quản lý độc quyền của Nhà Nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do vậy, HĐXX xét thấy để đảm bảo việc giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo gây ra. Cần phải cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội sau này.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố mẹ là ông Trần Văn T và bà Đinh Thị H là người có công trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước và được Nhà Nước tặng thưởng huân chương hàng nhì, hạng chương kháng chiến hạng ba đây các là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên HĐXX cần xem xét áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[5] Trong vụ án này, Đối tượng tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy trái phép cho bị cáo Trần Xuân T và đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) là người góp tiền cùng T mua ma túy. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Song đã tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả nên đã tách ra để tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Xuân T, Công an huyện Đắk Song đã ra Quyết định số 08/QĐ-XPHS ngày 16/5/2023 xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 0,6112 gam heroin hoàn lại sau giám định; 01 cái dao lam đã qua sử dụng; 01 vỏ gói thuốc lá, trên gói thuốc có ghi chữ JET do không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda biển kiểm soát 48F1-127X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 008896 mang tên Trần Xuân T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng cùng 01 sim điện thoại số 0367.748.X là các công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
[7] Về hình phạt bổ sung: xét về hoàn cảnh kinh tế của bị cáo đều khó khăn, không có nguồn thu nhập ổn định nên HĐXX không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[8] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố Nhà Nước tại phiên tòa hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ và cần chấp nhận.
[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Trần Xuân T 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/02/2023.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy: 0,6112 gam heroin hoàn lại sau giám định; 01 cái dao lam đã qua sử dụng; 01 vỏ gói thuốc lá, trên gói thuốc có ghi chữ JET do không còn giá trị sử dụng Tịch thu bán sung ngân sách Nhà Nước: 01 xe mô tô hiệu Honda biển kiểm soát 48F1-127X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 008896 mang tên Trần Xuân T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng cùng 01 sim điện thoại số 0367.748.X là các công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội (Kèm theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 15/6/2023)
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Buộc bị cáo Trần Xuân T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST
Số hiệu: | 30/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về