Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 29/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12/9/2023, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/HS-ST ngày 14/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2023/QĐXXST-HS ngày 30/8/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lù Văn Đ; tên gọi khác: không;

Sinh năm 1995, tại Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản NH2, xã B, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Lù Văn Ớ, sinh năm 1972 và con bà Pờ Thị T, sinh năm 1974; bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Ly Gạ N, sinh năm 1997; Con: bị cáo có 01 con, sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2023, tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 25/4/2023, Lù Văn Đ đi bộ từ nhà mình tại bản NH2, xã B, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu lên bản P, xã H, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu để mua ma túy. Đến nơi, Đ gặp một người đàn ông tên là X, trú tại bản P, xã H, huyện Nậm Nhùn, qua trò chuyện Đ mua được với Xò 01 gói Heroine, bên ngoài được bọc bằng mảnh nilon màu xanh, với số tiền 200.000 đồng, sau đó Đ nhặt một mảnh vải đen quấn gói Heroine vừa mua được vào ngón tay giữa của bàn tay phải và dùng đoạn băng gạc màu vàng quấn bên ngoài, nhằm tránh để lực lượng chức năng phát hiện. Đến 09 giờ 00 phút cùng ngày, khi Lù Văn Đ đang đi trong khu vực bản P, xã H thì bị tổ công tác Công an huyện Nậm Nhùn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ gói Heroine trên.

Cùng ngày 25/4/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nậm Nhùn đã mở niêm phong xác định khối lượng, tại kết luận giám định tư pháp số 20, ngày 25/4/2023 của giám định tư pháp viên theo vụ việc xác định: 01 gói chất bột khô, màu trắng thu giữ của Lù Văn Đ sau khi loại bỏ bao bì có khối lượng 0,23 gam và lấy toàn bộ gói chất bột, màu trắng thu giữ của Lù Văn Đ gửi làm mẫu giám định chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 508/GĐ-KTHS ngày 28/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Chất bột, màu trắng thu giữ của Lù Văn Đ gửi đến giám định đều là ma tuý, loại Heroine; có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số 21/CT - VKS ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Lù Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm):

...

c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lù Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lù Văn Đ từ 16 tháng tù đến 20 tháng tù; áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị miễn án phí theo quy định và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, trước Hội đồng xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối cải về hành vi của mình đã gây ra. Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện Nậm Nhùn, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Do bản thân bị cáo Lù Văn Đ nghiện ma tuý, nên khoảng 09 giờ 00 phút ngày 25/4/2023, tại bản P, xã H, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu, Lù Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,23 gam Heroine, thì bị Tổ công tác Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số Heroine của Lù Văn Đ, mục đích bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình và xã hội.

[4]. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[5]. Về vật chứng của vụ án:

01 gói Heroine có khối lượng 0,23 gam thu giữ của bị cáo đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Vỏ bì sau khi mở niêm phong; 01 mảnh vải màu đen, 01 đoạn băng gạc y tế màu vàng thu giữ của Lù Văn Đ được niêm phong trong một phong bì do Công an huyện Nậm Nhùn lưu hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì sau khi mở niêm phong, mảnh vải màu đen và đoạn băng gạc y tế màu vàng vụ Lù Văn Đ, sinh năm 1995, trú tại bản NH2, xã B, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xét thấy đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội là vật không còn giá trị còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần tiêu hủy.

Trong vụ án Lù Văn Đ khai nguồn gốc số Heroine bị cáo mua của một người đàn ông họ và tên: Vàng Pà X, sinh năm 1985. Tại Cơ quan điều tra, Vàng Pà X không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Lù Văn Đ, ngoài lời khai của Lù Văn Đ không còn tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý về hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6]. Về án phí: Bị cáo Lù Văn Đ là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lù Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lù Văn Đ 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2023.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- Vỏ bì sau khi mở niêm phong; 01 mảnh vải màu đen, 01 đoạn băng gạc y tế màu vàng thu giữ của Lù Văn Đ được niêm phong trong một phong bì do Công an huyện Nậm Nhùn lưu hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì sau khi mở niêm phong, mảnh vải màu đen và đoạn bông gạc y tế màu vàng vụ Lù Văn Đ, sinh năm 1995, trú tại bản NH2, xã B, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau của bì niêm phong các mép được dán kín, trên mép dán của bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng dán đè lên, trên mảnh giấy trắng có thể hiện chữ ký, họ tên của: Lò Văn Ví, Vũ Mạnh Hiếu, Đặng Hồng Hạnh, Nguyễn Thành Đạt, Lò Văn Quý, Lù Văn Đ và đóng 02 dấu hình tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ở hai đầu mép dán.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 13 giờ 40 phút ngày 07/8/2023 giữa Cơ quan Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù Văn Đ.

4. Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 12/9/2023

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về