Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 285/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 285/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 267/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 503/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Trương Đức H - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 27 tháng 9 năm 1983 tại thành phố V, tỉnh N; Nơi đăng ký thường trú: Khối 7, phường B, thành phố V, tỉnh N; Chổ ở hiện nay: Khối 12, phường B, thành phố V, tỉnh N ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Xuân S – Đã chết và bà: Nguyễn Thị L – sinh năm 1957 ; Vợ: Võ Thị T – sinh năm 1983; Con: Có 02, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Ngày 09/10/2018, Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ra trại ngày 25/11/2019; Tiền sự : không; Nhân thân: - Năm 2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong ngày 18/8/2006;

- Năm 2008, bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 08 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong ngày 10/5/2009; - Năm 2014, bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 23/6/2016 . Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2021 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ, ngày 27/4/2021, Trương Đức H đi làm về thì có cuộc điện thoại của Lê Duy C trú tại khối 12, phường T, thành phố V, tỉnh N nói: “Mày sang nhà tao cầm tiền đi lấy hộ 300.000 đồng ma túy đá để về chúng ta cùng sử dụng”, H đồng ý. Vì đang có 300.000 đồng trong người nên H gọi điện cho L là bạn quen biết (không rõ lai lịch địa chỉ) hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. L đồng ý bán và hẹn H đến Cầu Đen thuộc phường Trung Đô, thành phố V, tỉnh N để giao dịch. Tại đây H đưa cho L 300.000 đồng, L đưa cho H 01 gói ma túy đá được gói trong bao nilon màu trắng. Sau khi mua được ma túy, H điều khiển xe máy đi về gặp C để đưa gói ma túy cho C, khi đi đến trước số nhà 87 đường tàu cũ thuộc khối 1, phường Trung Đô, thành phố V thì bị tổ công tác Công an phường Quán Bàu, thành phố V kiểm tra, H thả gói ma túy đá vừa mua xuống đất, tổ công tác yêu cầu H nhặt lên. Người cùng tang vật được đưa về trụ sở làm việc. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã triệu tập Lê Duy C đến làm việc nhưng C không thừa nhận nhờ Trương Đức H mua ma túy và cũng không đưa tiền cho H để mua ma túy. Vì vậy chưa đủ cơ sở để xử lý đối với Lê Duy C. Tại cơ quan điều tra, Trương Đức H hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 27/4/2021 và thông báo kết quả giám định số 640/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 30/4/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Gói chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trương Đức H gửi đến giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,260 gam.

Cáo trạng số 302/VKS –HS ngày 21/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N đã truy tố bị cáo Trương Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Đức H từ 21 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng khác của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận: Vào hồi 11 giờ 50 phút, ngày 27/4/2021, tại khu vực số nhà 87, đường tàu cũ thuộc khối 1, phường Trung Đô, thành phố V, tỉnh N, Trương Đức H đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,260 gam ma túy (Methamphetamine) với mục đích để sử dụng, thì bị tố công tác Công an phường Quán Bàu, thành phố V kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, vi phạm vào điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý. Bị cáo có nhân thân xấu, có một tiền án lần này phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, nên cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xử bị cáo khung hình phạt như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm và thể hiện sự khoan hồng pháp luật.

Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo hiện không có việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[3] Về vật chứng: - 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ma túy (Methamphetamine) là chất cấm không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 033261xxxx thu của Trương Đức H là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 37L2-xxxx Trương Đức H sử dụng đi mua ma túy được xác định là tài sản của chị Phạm Thị L, sinh năm 1982, trú tại khối 8, phường B, thành phố V, tỉnh N. Chị L không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định.

Đối với Lê Duy C mà H khai là nhờ H mua ma túy, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã làm việc nhưng C không thừa nhận nhờ H mua ma túy và cũng không đưa tiền cho H, việc trao đổi giữa C và H không có tài liệu thể hiện cũng như không có người làm chứng. Vì vậy chưa đủ căn cứ để xử lý Lê Duy C. Đối với người tên L (không rõ lai lịch địa chỉ) bán ma túy cho H Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không rõ lai lịch địa chỉ. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau. Vì vậy miễn xét.

[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Đức H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Trương Đức H 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam 27/4/2021.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong chứa số ma túy (Mathemphetamine) còn lại sau khi giám định; Tịch thu xung quỹ nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 033261xxxx thu giữ của Trương Đức H (Vật chứng hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án thành phố V theo phiếu nhập kho vật chứng số NK2021/316 ngày 02/8/2021).

Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí buộc bị cáo Trương Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 285/2021/HS-ST

Số hiệu:285/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về