Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại Hội trường xét xử Hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, giới tính: Nam; sinh ngày: 01/10/1969 tại: Huyện L, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn H, xã M, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Văn P1 (đã chết); con bà Lê Thị L; có vợ Lê Thị H và 05 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2006;

Tiền sự: 01 tiền sự.

Ngày 06/4/2021, bị Công an xã M, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh ra Quyết định số  19/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau” bằng hình thức phạt tiền, số tiền 750.000 đồng. Đã nộp tiền phạt ngày 09/4/2021.

Tiền án: Không;

Nhân thân:

Ngày 05/6/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ  trái phép chất ma túy” tại Bản án số 21/2012/HSST. Thi hành án tại Trại giam số 6  Tổng cục VIII tỉnh Nghệ An, đến ngày 26/3/2014 chấp hành xong án phạt tù (đã  được xóa án tích).

Bị tạm giữ từ ngày 22/12/2021 đến ngày 28/12/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã M, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: Xóm H, xã M, huyện L. Tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

2. Chị Cao Thị N, sinh năm: 1990; nghề nghiệp: Giáo viên; trú tại: Khối phố  T, phường T, thành phố H (có đơn xin vắng mặt).

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Đức B, sinh năm 1989; trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 10 giờ 45 phút ngày 22/12/2021, tại ngã tư giao nhau giữa đường N và đường Q thuộc xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện Nguyễn Văn P có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thu giữ 01 gói nilon bọc mẫu giấy thiếc màu tím than kích thước 3,5cm x 3,5cm chứa cục chất bột nén màu trắng, bên ngoài gói nilon được quấn băng dính hai mặt màu đen (ký hiệu M1) và 01 gói nilon bọc giấy thiếc màu tím than kích thước 3,5cm x 3,5cm chứa cục chất bột nén màu trắng bên ngoài gói nilon được quấn băng dính hai mặt màu đen (ký hiệu M2) đựng trong vỏ bao thuốc lá ba số “555”. P khai nhận đây là ma túy P mua để sử dụng.

Theo Kết luận giám định số 23/GĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận:

- Chất bột nén màu trắng (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, là Heroine, có khối lượng 0,2090 gam.

- Chất bột nén màu trắng (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, là Heroine,  có khối lượng 0,2113 gam.

Heroine  là  chất  ma  túy  nằm  trong  Danh  mục  I,  STT  09,  Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Kết quả điều tra xác định được như sau: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày  22/12/2021, Nguyễn Văn P đang ở nhà tại xã M, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh do có nhu  cầu sử dụng ma túy nên P sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng vàng gắn sim số 0372160068 liên hệ đến số điện thoại 0889639881 của một  người đàn ông bán ma túy (P không biết tên, địa chỉ của người này) hỏi mua  600.000 đồng ma túy Heroine. Người đàn ông bán ma túy đồng ý và hẹn P đến ngã tư giao nhau giữa đường N và đường Q thuộc xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh để giao ma túy. P điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 38P1-136…. mượn của con gái là chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1994; trú tại xã M, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh) đến điểm hẹn thì người bán ma túy gọi lại hẹn đến ngã tư N giao nhau với đường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh. P tiếp tục điều khiển xe mô tô đến gặp người bán ma túy và đưa cho người này 600.000 đồng và nhận lại 01 vỏ bao thuốc lá ba số “555”. Biết bên trong có ma túy nên P bỏ vào túi áo khoác đang mặc trên người và điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến ngã tư đường N giao nhau với đường Q thì Nguyễn Văn P bị lực lượng Công an thành phố Hà Tĩnh kiểm tra.

Do hoảng sợ nên P đã vứt ma túy xuống đường thì bị lực lượng Công an khống chế và yêu cầu Phùng nhặt lên kiểm tra, phát hiện bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 gói nilon đều được quấn băng dính đen hai mặt bên trong đều bọc mẫu giấy thiếc màu tím than kích thước 3,5cm x 3,5cm đều đựng các cục chất bột nén màu trắng là ma túy Heroine P mua để sử dụng.

Thu giữ vật chứng: 0,4203 gam Heroine (trừ mẫu giám định còn 0,3698 gam Heroine) đựng trong 02 gói nilon trong suốt cùng vỏ bao gói cũ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng vàng thu giữ tại Nguyễn Văn P. Số vật chứng trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh để xử lý theo quy định. Còn 01 xe mô tô nhãn hiệuYamaha Sirius màu đỏ đen biển kiểm soát  38P1-136.50 thu tại Nguyễn Văn P được trả lại cho chủ sở hữu chị Nguyễn Thị H.

Bản cáo trạng số 28/CT-VKS-TPHT ngày 08/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố Nguyễn Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh giữ nguyên quan điểm như nội dung cáo trạng truy tố; trong phần luận tội và tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn P từ 21 đến 27 tháng  tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,3698 gam Heroine (sau khi trừ mẫu vật giám định) đựng trong 02 gói nilon trong suốt cùng vỏ bao gói cũ;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng vàng thu giữ tại Nguyễn Văn P.

Bị cáo Nguyễn Văn P không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo  nhận thức được sai phạm và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm  sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về chứng cứ xác định tội danh:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với Biên  bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Hà Tĩnh lập hồi 10 giờ 45 phút ngày 22/12/2021 tại khu vực ngã tư đường N giao nhau với đường Q thuộc xã   T, thành phố H; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các vật chứng vụ án được thu giữ và Kết luận giám định số 23/GĐMT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, xác định được: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 22/12/2021, tại khu vực ngã tư đường N giao nhau với đường Q thuộc địa phận xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Văn P đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,4203 gam ma túy Heroine thì bị lực lượng Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện, bắt quả tang thu giữ cùng tang vật. Bị cáo Nguyễn Văn P có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử, có đầy đủ căn cứ kết tội bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Tàng trữ  trái  phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, quá trình sinh sống ở nơi cư trú bị cáo là thành viên trong tổ covid – 19, có đóng góp thiết thực, tham gia tích cực trong các hoạt động của tổ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại  điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn P là nguy hiểm cho xã hội, xâm  phạm vào chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên  tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội  còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc  tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị  cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Văn P, do không có thông tin cụ thể, Cơ quan điều tra đã tiến hành tra cứu số điện thoại 0889639… của người bán ma túy  xác định chủ thuê bao là chị Cao Thị N (sinh năm 1990; trú tại phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) tuy nhiên chị N không sử dụng số điện thoại trên, vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Còn đối với chị Nguyễn Thị H là người cho Nguyễn Văn P mượn chiếc xe mô tô hiệuYamaha Sirius màu đỏ đen biển kiểm   soát 38P1-136.50, tuy nhiên chị H không biết Nguyễn Văn P sử dụng xe vào mục  đích đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị H là phù hợp.

[6] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề  nghị là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Cần Tịch thu tiêu hủy 0,3698 gam Heroine (sau khi trừ mẫu vật giám định) đựng trong 02 gói nilon trong suốt cùng vỏ bao gói cũ thu giữ tại Nguyễn Văn P là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị.

- Cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone  6 màu trắng vàng, thu giữ tại Nguyễn Văn P là công cụ phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38  Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn P 20 tháng tù (hai mươi tháng tù), thời hạn  tù  tính  từ  ngày  thi  hành  án,  được  trừ  thời  gian  đã  bị  tạm  giữ  từ  ngày  22/12/2021 đến ngày 28/12/2021.

* Về xử lý vật chứng và biện pháp tƣ pháp: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều  47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,3698 gam Heroine (sau khi trừ mẫu vật giám định) đựng trong 02 gói nilon trong suốt được bỏ vào phong bì thư của Công an tỉnh Hà Tĩnh, Phòng kỹ thuật hình sự cùng vỏ bao gói cũ thu giữ tại Nguyễn Văn P.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng vàng thu giữ tại Nguyễn Văn P là công cụ phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 16 giờ 15 phút ngày 12/4/2022 giữa cán bộ cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh và cán bộ Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh).

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên  án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo   bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST 

Số hiệu:26/2022/HS-ST 
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về