Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 253/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 253/2021/HS-PT NGÀY 18/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 178/2021/HSPT ngày 05/5/2021, đối với bị cáo Nguyễn Thành Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2021/HSST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thành Đ (tên gọi khác: N); giới tính: Nam; sinh ngày: 25/02/1987, tại thành phố H; hộ khẩu thường trú: 14 ấp A, xã X, huyện N, thành phố H; nghề nghiệp: thợ hàn; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Minh N1 và bà Trần Thị T1; có vợ và 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 12/10/2007, bị Công an huyện N xử phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 31/12/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện N quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 02 năm về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến ngày 25/01/1016 hoàn thành thời gian cai nghiện;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 22/6/2020 (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Võ Minh H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Tuấn A không có kháng cáo, nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập tham gia phiên tòa.

                                                                NỘI DUNG VỤ ÁN           

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 22/6/2020, Tổ tuần tra Hình sự đặc nhiệm - Công an quận D phối hợp cùng Công an phường S, quận D tiến hành tuần tra địa bàn. Khi đến trước số 02 đường T, phường S, quận D, Tổ tuần tra phát hiện Nguyễn Hoàng P (sinh năm 1994; ngụ tại thôn Đ, xã T, huyện M, tỉnh Q) điều khiển xe gắn máy Yamaha Exciter màu trắng xanh, biển số 59H1-xxxxx chở Nguyễn Thành Đ ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện trên yên xe, giữa Nguyễn Hoàng P và Nguyễn Thành Đ đang ngồi có 01 túi vải màu xanh đen, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu nghi vấn là ma túy nên đã tiến hành đưa Nguyễn Thành Đ và Nguyễn Hoàng P về trụ sở Công an phường S, quận D để làm rõ và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thành Đ.

Tại bản kết luận giám định số 1066/KLGĐ-H ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thành Đ và hình dấu Công an phường S, quận D là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,5961 gam, loại Methamphetamine.

Tại Công an phường S, quận D, Nguyễn Thành Đ khai nhận là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 22/6/2020, Nguyễn Thành Đ nhờ bạn là Võ Minh H chở từ huyện N ra Bến xe M để đi đến nhà bạn gái tại tỉnh P và đưa cho Võ Minh H 100.000 đồng để đổ xăng. Võ Minh H đồng ý, lấy xe gắn máy Luvias màu trắng bạc, biển số 59T1-xxxxx chở Nguyễn Thành Đ đi. Trên đường đi, Nguyễn Thành Đ nảy sinh ý định mua ma túy đá đem theo để sử dụng, nên nói Võ Minh H chạy xe đến hẻm 148 đường T, quận D để cho Nguyễn Thành Đ mua ma túy đá đem theo sử dụng, Võ Minh H đồng ý. Khi đến đầu hẻm 148 đường Đ, quận D, Võ Minh H dừng xe cho Nguyễn Thành Đ xuống. Nguyễn Thành Đ đi bộ đến gặp người đàn ông tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) đang đậu xe ôm đầu hẻm, Nguyễn Thành Đ nhờ T mua giùm 750.000 đồng ma túy đá, trả công cho T 100.000 đồng. T đồng ý và nhận 850.000 đồng của Nguyễn Thành Đ rồi lấy xe gắn máy chạy vào bên trong hẻm. Khoảng 15 phút sau, T quay trở ra, đưa cho Nguyễn Thành Đ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có chứa ma túy đá. Nguyễn Thành Đ mở vỏ bao thuốc lá Jet ra kiểm tra, thấy bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, Nguyễn Thành Đ cất vỏ bao thuốc lá Jet rồi đi ra cho Võ Minh H chở đi. Trên đường đi, Nguyễn Thành Đ lấy gói nylon chứa ma túy đá để trong vỏ bao thuốc lá Jet ra, cho vào túi vải màu xanh đen mang theo cất giấu, còn vỏ bao thuốc lá Nguyễn Thành Đ ném bỏ. Khi Võ Minh H chở Nguyễn Thành Đ đến đường N, quận D, Nguyễn Thành Đ đổi ý thuê xe ôm công nghệ chở ra Bến xe M. Nhìn thấy Nguyễn Hoàng P mặc áo xe ôm công nghệ Grab vừa cho khách xuống tại đường N, Nguyễn Thành Đ nói Võ Minh H dừng xe lại. Nguyễn Thành Đ hỏi Nguyễn Hoàng P chở ra Bến xe M, Nguyễn Hoàng P cho biết giá 60.000 đồng. Nguyễn Thành Đ đồng ý đi nên Nguyễn Hoàng P sử dụng xe gắn máy Yamaha Exciter màu trắng xanh, biển số 59H1-xxxxx để chở Nguyễn Thành Đ. Nguyễn Thành Đ lên xe của Nguyễn Hoàng P, để túi vải màu xanh đen bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy đá trên yên xe, ở giữa chỗ Nguyễn Thành Đ và Nguyễn Hoàng P đang ngồi. Khi Nguyễn Hoàng P chở Nguyễn Thành Đ đến trước số 02 đường T, phường S, quận D thì bị Tổ tuần tra Công an quận D kiểm tra, phát hiện Nguyễn Thành Đ đang cất giữ ma túy như đã nêu trên.

Riêng Võ Minh H sau khi cho Nguyễn Thành Đ xuống xe, Võ Minh H một mình điều khiển xe gắn máy Luvias màu trắng bạc, biển số 59T1-xxxxx chạy về huyện N. Khi Võ Minh H chạy đến trước số 448 đường N, phường S, quận D thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, mời về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an, Võ Minh H thừa nhận toàn bộ hành vi phù hợp với lời khai của Nguyễn Thành Đ. Tiến hành xét nghiệm nhanh ma túy, Nguyễn Thành Đ và Võ Minh H có sử dụng ma túy tổng hợp.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành Đ và Võ Minh H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đối với Nguyễn Hoàng P là người chạy xe ôm công nghệ do Nguyễn Thành Đ đón dọc đường để chở ra bến xe, Nguyễn Hoàng P không biết và không liên quan đến việc Nguyễn Thành Đ mua và cất giữ ma túy nên hành vi không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra chỉ ghi lời khai của Nguyễn Hoàng P với tư cách người có liên quan.

Đối với người đàn ông tên T do Nguyễn Thành Đ khai đã nhờ mua giùm ma túy, quá trình điều tra do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa có cơ sở xử lý. Cơ quan điều tra đã trích hồ sơ để tiếp tục làm rõ, khi nào có đủ cơ sở sẽ xem xét xử lý sau.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2021/HSST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Nguyễn Thành Đ 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2020.

Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thành Đ 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Bản án Hình sự sơ thẩm còn tuyên về hình phạt tù và nộp phạt để sung vào ngân sách nhà nước đối với bị cáo Võ Minh H, xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/4/2021, bị cáo Nguyễn Thành Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thành Đ trình bày: Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo mới phạm tội lần đầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Nguyễn Thành Đ tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nhưng chưa xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu nên mức hình phạt của cấp sơ thẩm có phần nghiêm khắc. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội về các chất ma túy, tội phạm này là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thành Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ nào khác đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận D.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ không có ý kiến tranh luận và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành Đ làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thành Đ, tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 22/6/2020, tại trước số 02 đường T, phường S, quận D, Tổ tuần tra Hình sự đặc nhiệm - Công an quận D phối hợp cùng Công an phường S, quận D tuần tra, phát hiện Nguyễn Hoàng P điều khiển xe gắn máy Yamaha Exciter màu trắng xanh, biển số 59H1-xxxxx chở Nguyễn Thành Đ ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện Nguyễn Thành Đ có hành vi cất giữ trong túi xách 01 gói nylon bên trong có chứa 2,5961 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 1066/KLGĐ-H ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh), nhằm mục đích sử dụng. Võ Minh H là đồng phạm với Nguyễn Thành Đ vì có hành vi sử dụng xe gắn máy Luvias biển số 59T1-xxxxx chở Nguyễn Thành Đ đến đầu hẻm 148 đường Đ, quận D để cho Nguyễn Thành Đ mua ma túy, sau khi Nguyễn Thành Đ cho biết đã mua được ma túy, Võ Minh H tiếp tục chở Nguyễn Thành Đ đi tiếp một đoạn đường.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án nhân dân quận D xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy cấp sơ thẩm chưa xem xét tình tiết giảm nhẹ của bị cáo là phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo và giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thành Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành Đ và sửa Bản án sơ thẩm. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/6/2020.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành Đ nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 253/2021/HS-PT

Số hiệu:253/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về