Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 243/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 243/2022/HS-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 256/2022/TLST- HS ngày 18/8/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 256/2022/QĐXXST- HS ngày 25/8/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1996, tại Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản M P 2, xã M P, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Biên, sinh năm 1972 và bà: Lò Thị Ương, sinh năm 1976; vợ: Chui Thị Hoa, sinh năm 1996 và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa có án tích; chưa bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 31/7/2022 "có mặt".

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Bùi Thúy An - Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên."vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 31/7/2022, bị cáo đi bộ đi xe mô tô BKS 27B2-134.49 từ nhà đến bản Na Khưa, xã Thanh Chăn, huyện Đ B với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine với giá tiền là 100.000đ của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ. Sau đó bị cáo cầm gói Heroine bên tay trái rồi đi xe về nhà. Hồi 17 giờ 20 phút cùng ngày khi bị cáo đi đến khu vực bản Pá Sáng, xã Hua Thanh thì bị tổ công tác Công an xã Hua Thanh phối hợp với Công an huyện Đ B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói Heroine được gói bằng hai lớp, lớp bên ngoài là ni lon màu hồng, lớp bên trong là giấy bạc màu vàng do bị cáo đang cầm bên tay trái.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 31/7/2022 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,23 gam;

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 1109/KL-KTHS ngày 08/8/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là Heroine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 170/CT-VKSĐB ngày 17/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Đề nghị xử phạt bị cáo từ 14 đến 17 tháng tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo được miễn án phí HSST.

- Ý kiến người bào chữa: Việc truy tố bị cáo về tội danh và lời luận tội là đúng quy định của pháp luật. Bị cáo thành khẩn khai báo, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Bị cáo thuộc hộ cận nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo.

- Ý kiến VKS: Vẫn giữ nguyên quan điểm, mức án VKS đề nghị là phù hợp đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 31/7/2022 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, khi bị cáo đang trên đường về nhà thì bị bắt quả tang 01 gói Heroine có khối lượng 0,23 gam. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

Tại bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo có ý kiến và đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Ý kiến của đại diện VKS là với hành vi, nhân thân và khối lượng ma túy do bị cáo phạm tội thì mức án do VKS đề nghị xử phạt bị cáo từ 14 đến 17 tháng tù là phù hợp. HĐXX xét thấy ý kiến của VKS là phù hợp nên cần chấp nhận và xử phạt bị cáo trong khoảng 14 tháng đến 17 tháng tù như VKS là phù hợp, do vậy HĐXX cần phải chấp nhận.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.

Đối với bà Lò Thị Ương đã cho bị cáo mượn xe mô tô BKS 27B2-134.49, nhẫn hiệu HONDA, loại VISION nhưng không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội nên không xử lý trong vụ án.

[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[8]. Vật chứng: 0,23 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,18 gam) cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/Bộ luật hình sự.

1.Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 31/7/2022

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí HSST.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,23 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,18 gam).

(Vật chứng đã được công an huyện Đ B chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B ngày 18/8/2022).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 243/2022/HS-ST

Số hiệu:243/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về