Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh D, sinh năm 1992; tại tỉnh Tây Ninh; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã N, Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị D1; bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 01 người con; tiền án, tiền sự: Không có; bị tạm giữ từ ngày 03-01-2022, tạm giam từ ngày 12-01-2022 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 03-01-2022, D điều khiển xe mô tô biển số 70L5- 7xxxx đến khu vực ấp K, xã, Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh gặp người tên X (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể). Tại đây, X đưa cho D số tiền 1.000.000 đồng để mua ma túy về cùng sử dụng chung. Sau đó, D đến khu vực ấp T, xã N, Huyện Dương Minh Châu gặp người tên A (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) mua 01 bịch ma túy với số tiền 1.000.000 đồng đem về đến khu vực ấp K, xã C, Huyện Dương Minh Châu thì bị Công an huyện Dương Minh Châu bắt quả tang cùng vật chứng có liên quan.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Kết luận giám định số 27/KL-KTHS ngày 05/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín bốn đầu (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,8823 gam; Khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (Một) bịch nylon màu trắng được hàn kín bốn đầu, bên trong là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,8823 gam (Không phẩy tám tám hai ba gam), khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235 gam (Không phẩy tám hai ba năm gam).

- 01 (Một) xe mô tô biển số 70L5-7xxxx, số khung: VWNPCG00314*013XXX*, số máy: Bị đục xóa không xác định được số nguyên thủy.

* Kê biên tài sản: Nguyễn Minh D không có tài sản riêng nên không tiến hành kê biên.

Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSDMC ngày 16 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện D Minh Châu đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác được áp dụng:

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, Nguyễn Minh D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

* Quá trình điều tra, Nguyễn Minh D khai nhận Xị đã đưa tiền mua ma túy cùng sử dụng; Anh là người đã bán ma túy. Tuy nhiên, chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được khi nào làm rõ xử lý sau.

* Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Minh D đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ, Công an huyện D Minh Châu đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện D Minh Châu giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D mức án từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù; miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (Một) xe mô tô biển số 70L5- 7xxxx, số khung: VWNPCG00314*013XXX*, số máy: Bị đục xóa không xác định được số nguyên thủy.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi vụ số: 27/KL- KTHS có chữ ký giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy Dương; bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235 gam (không phẩy tám hai ba năm gam).

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào ngày 03-01-2022, tại khu vực ấp K, xã C, Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, Nguyễn Minh D đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tên gọi Methamphetamine với khối lượng 0,8823 gam thì bị bắt quả tang. Khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235 gam.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn tại địa phương. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai, biên bản bắt người quả tang các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định hành vi của Nguyễn Minh D thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy nhưng bất chấp hậu quả đã thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng nhằm để thỏa mãn cơn nghiện. Đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe mô tô biển số 70L5- 7xxxx, số khung: VWNPCG00314*013XXX*, số máy: Bị đục xóa không xác định được số nguyên thủy.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi vụ số: 27/KL- KTHS có chữ ký giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy Dương; bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235 gam (không phẩy tám hai ba năm gam).

* Đối tượng tên X đã đưa tiền mua ma túy cùng sử dụng; đối tượng tên A là người đã bán ma túy. Tuy nhiên, chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được khi nào làm rõ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-01-2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe mô tô biển số 70L5- 7xxxx, số khung: VWNPCG00314*013XXX*, số máy: Bị đục xóa không xác định được số nguyên thủy.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi vụ số: 27/KL- KTHS có chữ ký giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy Dương; bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng hoàn lại sau giám định 0,8235 gam (không phẩy tám hai ba năm gam).

(Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-4-2022)

3. Án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Minh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Ðiều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về