Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M C – TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 23/2022/HSST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện M C tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2022. Theo quyết định đưa vụ án xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐ-ST ngày 26/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: L V H; Tên gọi khác: Không - Sinh năm: 1976. Nơi sinh:  Huyện T G, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H L, xã M M,  Huyện T G, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: 2/12. Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: L V S và bà: L T K.

Vợ: L T U – Sinh năm: 1983. Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/07/2014 bị Tòa án nhân dân  Huyện T G, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 16/8/2017 bị Tòa án nhân dân  Huyện T G, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ cả 02 bản án và đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/01/2022, tạm giam từ ngày 11/01/2022 đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo L V H là bà Lê Thị Thúy An – Trợ giúp viên pháp  lý thuộc Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Điện Biên - Có mặt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà L T U - Sinh năm: 1983.

Trú tại: Bản H L, xã M M,  Huyện T G, tỉnh Điện Biên – Vắng mặt có lý do.

- Bà L T T - Sinh năm: 1982.

Trú tại: Bản H L, xã M M,  Huyện T G, tỉnh Điện Biên – Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 02/01/2022, L V H điều khiển xe môtô mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81 chở vợ là L T U đi từ nhà ở bản H L, xã M M,  Huyện T G, tỉnh Điện Biên sang xã Mường Báng,  Huyện Tủa Chùa để chặt cây. Đi được khoảng 200m thì L V H nói chị Ui xuống xe để H đi có việc. Sau đó, H một mình điều khiển xe môtô đến đầu bản H L, xã M M, tại đây H trao đổi mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 30 gói Heroine với giá 800.000 đồng, H cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người. H quay lại đón chị Ui tiếp tục đi chặt cây. Đến 09 giờ  05 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực bản Hô Mức, xã Nậm Nèn,  Huyện M C thì bị tổ công tác Công an  Huyện M C phối hợp với Công an xã Nậm Nèn phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi áo khoác bên trái của H có 30 gói Heroine có tổng khối lượng là 1,281 gam. Vào 21 giờ 40 phút cùng ngày, trong quá trình làm thủ tục tiếp nhận L V H vào Nhà tạm giữ Công an  Huyện M C, Cán bộ Nhà tạm giữ đã phát hiện tại túi quần đùi bên phải của H đang mặc trên người có 03 gói Heroine có khối lượng 0,427 gam và tiến hành lập biên bản thu giữ. Đối với số Heroine này, H khai nhận mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) vào khoảng tháng 12/2021 với giá 300.000 đồng ở khu vực bản Mường Báng, xã Mường Báng,  Huyện Tủa Chùa về để sử dụng. Như vậy, L V H đã có hành vi cất giấu trái phép tổng khối lượng 1,708 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 02/01/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an  Huyện M C xác định 30 gói chất bột nén màu trắng đục nghi là Heroine thu giữ của L V H có khối lượng 1,281 gam, trích mẫu gửi giám định 0,8 gam, còn lại 0,481 gam.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 03/01/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an  Huyện M C xác định 03 gói chất bột nén màu trắng đục nghi là Heroine thu giữ của L V H có khối lượng 0,427 gam, trích mẫu gửi giám định  0,117 gam, còn lại 0,31 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 144/GĐ-PC09 ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của L V H là 1,708 gam; 33 mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của L V H gửi giám định là ma tuý: Loại Heroine.

Những người có quyền lợi liên quan bà L T U có đơn trình bày đối với chiếc xe máy L V H đem đi mua ma túy là xe của vợ chồng tích góp tiền để mua cho gia đình làm phương tiện đi lại, đó là tài sản chung của vợ chồng, đề nghị Hội đồng xét   xử trả lại chiếc xe cho gia đình. Tại biên bản lấy lời khai bà L T T trình bày chiếc xe máy L V H sử dụng đi mua ma túy là xe của bà bán cho vợ chồng L V H nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ nên đăng ký xe vẫn còn mang tên bà.

Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKS-MC, ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân  Huyện M C, tỉnh Điện Biên đã truy tố L V H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân  Huyện M C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo H cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo L V H từ 20 tháng tù đến 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều  249 của Bộ luật hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm  a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,791 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 30 mảnh ni lông màu hồng, 02 mảnh ni lông màu trắng, 01 mảnh ni lông màu xanh, 02 phong bì niêm phong ban đầu;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 1/2 giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81 (vì chiếc xe mô tô là tài sản chung của vợ chồng).

Trao trả lại cho chị L T U: 1/2 giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave  RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81.

Tiếp tục tạm giữ 01 đăng ký xe môtô mang tên L T T và 01 chiếc chìa khóa xe  mô tô để đảm bảo thi hành án.

Đối với những người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để xác minh xử lý theo quy định pháp luật.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn do đó miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, gia đình bị cáo kinh tế rất khó khăn thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp gia đình bị cáo không có tài sản gì đáng giá trị lớn hành năm thường thiếu lương thực, bị cáo là dân tộc thiểu số sinh sống nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó đề nghị áp dụng điểm s khoản 1  Điều  51  Bộ  luật  hình  sự,  điển  đ  khoản  1  Điều  12  Nghị  quyết  số:  326/2016/  UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án như Kiểm sát viên đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được  tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo L V H khai nhận toàn bộ hành vi của mình, xác định ngày 02/01/2022, tại khu vực bản Hồ Mức, xã Nậm Nèn,  Huyện M C, tổ công tác Công an  Huyện M C bắt quả tang L V H có hành vi Tàng trữ trái phép 1,708 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát  Huyện M C theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

" 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận cHển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11  có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam 

[2] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo luôn nhận thức được rằng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo bị Nhà nước nghiêm cấm nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc. Đồng thời, ma túy còn là nguyên nhân làm suy kiệt giống nòi, gia đình tan vỡ, kinh tế gia đình khánh kiệt, bên cạnh đó, còn làm gia tăng các loại tội phạm khác. Song, bị cáo vẫn bất chấp tất cả coi thường kỷ cương phép nước cố tình mua ma túy về tàng trữ sử dụng.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự trị an trên địa bàn  Huyện. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3] Xét về nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L V H sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi dưỡng, đi học hết lớp 2/12 rồi ở nhà lao động sản xuất phụ giúp gia đình, đến tuổi trưởng thành xây dựng gia đình riêng. Ngày  17/7/2014 bị Tòa án nhân dân  Huyện T G xử phạt 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 16/8/2017 tiếp tục  bị Tòa án nhân dân  Huyện T G  xử phạt 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ cả  02 bản án và đã được xóa án tích. Bị cáo bị Tòa án xét xử nhiều lần trước cũng liên quan đến ma túy, lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để cảnh tỉnh bản thân nhưng bị cáo không làm được, sau khi mãn hạn tù trở về địa phương bị cáo tiếp tục quay lại   con đường nghiện ma túy, để thỏa mãn cho nhu cầu nghiện hút của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật cố tình tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng,  đây cũng là con đường một lần nữa bị cáo phải đối mặt chịu sự trừng phạt của pháp luật. Hành vi của bị cáo không những gây hại cho bản thân bị cáo mà còn làm khổ gia đình về cả kinh tế, tình cảm; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Do vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo là người nghiện chất ma túy. Như vậy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp cần được xem xét chấp nhận.

Lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa và có căn cứ pháp luật, phù hợp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa nên được chấp nhận. Như vậy khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xét về nhân thân, quá trình sinh sống việc chấp hành pháp luật của bản thân bị cáo, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khối lượng ma túy, để quyết định áp dụng mức hình phạt cho phù hợp. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản của gia đình bị cáo do Cơ quan CSĐT Công an  Huyện M C xác lập, gia đình bị cáo kinh tế rất khó khăn. Hơn nữa, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, xét thấy hoàn cảnh gia đình của bị cáo gặp nhiều khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 0,791 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 30 mảnh ni lông màu hồng, 02 mảnh ni lông màu trắng, 01 mảnh ni lông màu xanh, 02 phong bì niêm phong ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81, kèm 01 chìa khóa xe; 01 đăng ký xe môtô mang tên L T T bị cáo sử dụng vào việc mua ma túy để tàng trữ, là xe máy của bà L T T bán cho vợ chồng bị cáo nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự  và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự phải tịch thu sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời khai của bị cáo cũng như văn bản trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà L T U là vợ của bị cáo, chiếc xe máy đó do vợ chồng bị cáo mua để làm phương tiện đi lại cho gia đình, khi bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội   chị Ui không biết. Do đó, căn cứ vào Điều 33 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81 là tài sản chung hợp nhất của bị cáo và bà Ui, bà Ui không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử cần tuyên tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81, còn 1/2 giá trị chiếc xe được trả lại cho bà L T U sở hữu. Đối với chiếc chìa khóa xe; đăng ký xe môtô mang tên L T T cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Nguồn gốc số ma túy mà bị cáo bị thu giữ là bị cáo mua của một những người đàn ông. Tuy nhiên, bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ của những người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ. HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn do đó miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Xét về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an  Huyện M C và Viện Kiểm sát nhân dân  Huyện M C, Điều tra viên, Kiểm sát viên, từ khi khởi tố vụ án, quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đảm bảo về hình thức, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo L V H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo L V H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày  02/01/2022.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an  Huyện M C, tỉnh Điện Biên có đặc điểm: Bì thư màu trắng, kích thước khoảng 22 cm x 15 cm, Phía dưới bên phải mặt trước phong bì dán mảnh giấy in chữ đánh máy. Trong phong bì niêm phong vật chứng còn lại gồm 0,481 gam Heroine được cho vào 27 mảnh ni-lon màu hồng; 02 mảnh ni-lon màu trắng; 01 mảnh ni-lon màu xanh và 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. 01 phong bì niêm phong vật chứng của Cơ quan CSĐT   Công an  Huyện M C, tỉnh Điện Biên có đặc điểm: Bì thư màu trắng, kích thước khoảng 22 cm x 15 cm, Phía dưới bên phải mặt trước phong bì dán mảnh giấy in chữ đánh máy. Trong phong bì niêm phong vật chứng còn lại gồm 0,31 gam Heroine được cho vào 03 mảnh ni-long màu trắng vuốt kín mép túi; 03 mảnh ni-long màu hồng và 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 1/2 giá trị 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, mang biển kiểm soát 27Z1- 253.81. Trả lại 1/2 giá trị chiếc xe cho bà L T U – Sinh năm: 1983. Trú tại bản H L, xã M M,  Huyện Tuấn Giáo, tỉnh Điện Biên. Tiếp tục tạm giữ 01 chìa khóa xe; 01 đăng ký xe môtô mang tên L T T để đảm bảo thi hành án.

Số vật chứng trên đã được bàn giao sang Chi cục thi hành án dân sự  Huyện M C  vào ngày 06/4/2022.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1  Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội, miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 29/4/2022. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án những gì liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ  ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HSST

Số hiệu:23/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về