Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 233/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/HSST - QĐ ngày 21/01/2022 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Anh T, sinh năm 1993. Tại Thái Bình.

Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình.

Nơi sinh sống: Khu 14, xã Đ, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình K, sinh năm 1966 và bà Trịnh Thị M, sinh năm 1963; Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con út, chưa vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/9/2021 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyên Anh T là người nghiện ma túy tổng hợp. Khoảng 17 giờ ngày 21/9/2021 T mượn điện thoại di động của Nguyễn Hoàng Anh Th để chơi game sau đó đăng nhập vào tài khoản Facebook vào nhóm “Hội đồng phế” tìm mua ma túy để sử dụng. Khi liên hệ được người bán trên Facebook, T hỏi mua 300.000 đồng ma túy và hẹn địa điểm giao ma túy tại chợ LT thuộc khu Cầu Xéo, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Sau khi thỏa thuận xong T điều khiển xe mô tô biển số 93P1 - 278.29 đi đến điểm hẹn trên gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, nhân thân, lai lịch) đưa 300.000 đồng và lấy 01 gói ma túy đem về phòng trọ nơi T thuê ở tại khu 14, xã Đ, huyện LT, cất giấu để sử dụng. Đến 22 giờ cùng ngày lực lượng Công an xã Đ, huyện LT, kiểm tra hành chính nơi ở của T nêu trên thì phát hiện dưới nệm trong phòng trọ của T đang ở có 01 gói nilong nghi chứa ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, đồng thời chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra Công an huyện LT để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng tạm giữ: 01 bao thư bên trong có chứa chất Methamphetamine đã được niêm phong số 1867 ngày 28/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai hoàn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11;

01 xe mô tô biển số 93P1-278.29 và 01 chai nhựa có gắn dụng cụ để sử dụng ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 1867/KLGĐ–PC09 ngày 28/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3020 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 241/CT-VKSLT ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện LT đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LT giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 20 (hai mươi) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy đã niêm phong số 1867/KLGĐ-PC09 ngày 28/9/2021 có đóng dấu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11 là tài sản của T xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra Công an huyện LT trả lại cho Bị cáo T.

Riêng đối với xe 93P1 – 278.29 Bị cáo T khai mua lại tại tiệm cầm đồ nhưng không nhớ tên và chưa làm thủ tục sang tên, qua xác minh, điều tra xác định xe này đứng tên sở hữu của chị Tống Thị H nhưng chị H đã bán cho người khác, hiện tại chưa làm việc được với người mua xe của chị H, nên chưa rõ nguồn gốc chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ xác minh xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện LT, Viện kiểm sát nhân dân huyện LT, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép 0,3020 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện LT đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm vào chế độ quản lý, sử dụng các chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức rõ được tác hại của ma túy mang lại nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, phải tuyên xử bị cáo một mức án tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy trong 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 1867/KLGĐ-PC09 ngày 28/9/2021 có đóng dấu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 chai nhựa có gắn dụng cụ để sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Bị cáo T không rõ lai lịch địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[7] Đối với 01 điện thoại di động Samsung A11 là tài sản của Bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an huyện LT đã trả lại cho Bị cáo T là đúng theo quy định pháp luật.

[8] Riêng đối với xe 93P1 – 278.29 Bị cáo T khai mua lại tại tiệm cầm đồ nhưng không nhớ tên và chưa làm thủ tục sang tên, qua xác minh, điều tra xác định xe này đứng tên sở hữu của chị Tống Thị H nhưng chị H đã bán cho người khác, hiện tại chưa làm việc được với người mua xe của chị H, nên chưa rõ nguồn gốc chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ xác minh xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong mẫu vật sau giám định số số 1867/KLGĐ – PC09 ngày 28/9/2021 và 01 chai nhựa có gắn dụng cụ để sử dụng ma túy theo Quyết định chuyển vật chứng số 89/QĐ-VKSLT ngày 22/12/2021 và biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/12/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện LT và Chi cục Thi hành án dân sự huyện LT.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Anh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về