Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 222/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 222/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 195/2022/TLST- HS ngày 23 tháng 06 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 320/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Thanh H, sinh năm 1971, tại tỉnh Nam Định; giới tính: Nam; thường trú: đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Kim X, sinh năm 1927 (chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1940; có 03 anh, em, lớn nhất sinh năm 1964, nhỏ nhất sinh năm 1984; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Ngày 15/6/1987: Cướp giật tài sản, Công an thành phố N, tỉnh Nam Định phạt cảnh cáo.

- Ngày 25/11/1990: Trộm cắp tài sản, Viện kiểm sát tỉnh Nam Định đình chỉ điều tra.

- Ngày 28/6/1992: Trộm cắp tài sản, Viện kiểm sát tỉnh Nam Định đình chỉ điều tra.

- Ngày 31/01/1994: Tòa án nhân dân tỉnh Nam Hà (nay là tỉnh Hà Nam) xử phạt 27 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 28 ngày 27/5/2008 Chi cục thi hành án dân sự thành phố N ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 428.

- Ngày 28/9/1996: Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử sơ thầm phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 208, ngày 21/01/1997 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phúc thầm phạt 15 tháng tù theo bản án số: 02.

- Ngày 09/4/1998: Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 61, ngày 27/5/2008 Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định ra Quyết định đình chỉ thi hành án số: 420.

- Ngày 16/4/2001: Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 60, ngày 27/5/2008 Chi cục thi hành án dân sự thành phố N ra Quyết định đình chỉ thi hành án số: 427.

- Ngày 02/02/2005: Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 05, ngày 27/5/2008 Chi cục thi hành án dân sự thành phố N ra Quyết định đình chỉ thi hành án số: 150, ngày 12/6/2006 Chi cục thi hành án dân sự thành phố N ra Quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án số: 18.

- Ngày 29/9/2010: Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số: 337.

Bị bắt tạm giam ngày 30/12/2021, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người chứng kiến: Lê Tấn P; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 30/12/2021, Lê Thanh H rủ bạn tên T đi mua ma túy về để sử dụng. T đưa xe mô tô Dream, nhãn hiệu SIDO, biển số 37P4–0697 cho H điều khiển xe đi từ khu vực Công ty V thuộc huyện, tỉnh Đồng Nai đến khu vực ngã tư G thuộc quận G, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người phụ nữ mua 500.000 đồng ma túy đá thì được người phụ nữ đưa cho H 01 túi nylon bên trong chứa ma túy đá, H cất túi ma túy vào trong túi quần Jean phía sau bên trái đang mặc và điều khiển xe quay về để cùng T sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, H đi về đến chân cầu vượt T thuộc khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra Công an thành phố D yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện. Lực lượng Công an đã lập biên bản người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Theo Kết luận giám định số: 42/MT-PC09 ngày 02/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định thu giữ của Lê Thanh H là ma túy có khối lượng: 0,8410 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người tên T cho H mượn xe hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Lê Thanh H hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Tại cáo trạng số 220/CT–VKS ngày 22 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Thanh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Thanh H mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Vật chứng, xử lý vật chứng:

- Đối với 0,7731 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô hai bánh kiểu dáng Dream, nhãn hiệu SIDO, số loại 100-1, số khung CF100*01060458*, số máy 1P50FMG*10236167*, biển số 37P4–0697, số máy không tìm thấy trong dữ liệu tra cứu, đã giám định, đăng báo không xác định chủ sở hữu, đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Tại phiên tòa, bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nên không tranh luận và đối đáp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 23 giờ ngày 30/12/2021, tại chân cầu vượt T thuộc khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Lê Thanh H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng ma túy là 0,8410 gam, loại Methamphetamine và bị bắt quả tang. Hành vi của Lê Thanh H đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 220/CT–VKS-DA ngày 22 tháng 06 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nhân thân xấu; bị Tòa án xét xử nhiều lần, nhiều tội danh và nghiện ma túy.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 bì thư 0,7731 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định, tuyên tịch thu, tiêu hủy; xe mô tô hai bánh kiểu dáng Dream, nhãn hiệu SIDO, số loại 100-1, số khung CF100*01060458*, số máy 1P50FMG*10236167*, biển số 37P4–0697, số máy không tìm thấy trong dữ liệu tra cứu, đã giám định, đăng báo không xác định chủ sở hữu, là phương tiện phạm tội có căn cứ tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo, nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt trong mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

[9] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho tên Hải hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ghi số 42/PC09 chứa ma túy còn lại sau giám định, có khối lượng 0,7731 gam.

Tịch sung ngân sách nhà nước: xe mô tô hai bánh kiểu dáng Dream, nhãn hiệu SIDO, số loại 100-1, số khung CF100*01060458*, số máy 1P50FMG*10236167*, biển số 37P4–0697.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/6/2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thanh H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 222/2022/HS-ST

Số hiệu:222/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về