Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 21/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Trọng D, sinh ngày 22-7-1980; tại: xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: thôn T, xã T,, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trọng T (đã chết) và bà Trần Thị Kh, sinh năm 1958; tiền án: không; tiền sự: ngày 13-01-2021 bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính, hình thức phạt tiền, số tiền 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép 0,013 gam ma tuý loại Methamphetamine (Tính đến thời điểm phạm tội bị cáo D chưa nộp tiền phạt); nhân thân: ngày 19-6-2009 bị Công an xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính, hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản công dân”. Ngày 23-10-2009 bị Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Quyết định số 144/QĐ-UBND, ngày 12-01-2012 của Chủ tịch UBND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma tuý vào trong tâm 05 - 06 tỉnh Thái Bình đưa Trần Trọng D vào trung tâm 05 - 06 tỉnh Thái Bình để cai nghiện bắt buộc, thời hạn 12 tháng; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14-12-2022 đến ngày 20-12-2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Lưu Huy H, sinh năm 1984; vắng mặt Nơi cư trú: tổ dân phố Th, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

2. Ông Trần Văn Nh, sinh năm 1964; vắng mặt Nơi cư trú: tổ dân phố Â, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 10 phút ngày 14-12-2022, tại đoạn đường quốc lộ 39A thuộc địa phận tổ dân phố Tây Xuyên, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Tổ công tác của Công an huyện Hưng Hà phát hiện bắt quả tang bị cáo Trần Trọng D có hành cất giấu tại túi quần bò bên phải phía trước đang mặc 01 gói giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bị cáo D khai nhận đó là ma tuý, loại Heroine, mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực gần cầu Triều Dương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong gói giấy tráng kim chứa chất bột màu trắng dạng cục trên trước sự chứng kiến của ông Trần Văn Nh và anh Lưu Huy H.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Trần Trọng D, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 461/KL - KTHS (MT) ngày 17-12-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine) có khối lượng 0,1433 gam. Heroine STT: 09, Danh mục IA, phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKSHH ngày 24-02-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Trọng D ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Trọng D khai nhận: do mắc nghiện ma túy nên khoảng 13 giờ 15 phút ngày 14-12-2022, bị cáo đi bộ từ nhà lên khu vực Cầu Triều Dương, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực cầu Triều Dương, bị cáo đã gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết họ tên, địa chỉ, qua nói chuyện, bị cáo biết người này bán ma túy Heroine nên bị cáo đặt vấn đề mua và đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền và đưa cho bị cáo một gói giấy tráng kim màu trắng, bị cáo biết là gói ma túy Heroine. Bị cáo cầm gói ma túy cất giấu vào túi quần bò bên phải phía trước của bị cáo đang mặc trên người và đi tìm nơi sử dụng ma túy, bị cáo đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đến khi vực tổ dân phố Tây Xuyên, thị trấn Hưng Nhân, bị cáo xuống xe đi bộ được một đoạn thì bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình yêu cầu kiểm tra, bị cáo đã tự nguyện lấy từ túi quần bò bên phải phía trước đang mặc 01 gói giấy tráng kim màu trắng mà bi cáo vừa mua nộp cho lực lượng Công an. Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành mở kiểm tra bên trong gói giấy tráng kim màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo biết đó là Heroine, sau đó đã hành niêm phong gói giấy tráng kim chứa chất bột màu trắng dạng cục trên trước sự chứng kiến của bị cáo và một số người làm chứng.

Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Trọng D như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX): tuyên bố bị cáo Trần Trọng D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Trọng D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 14-12-2022; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Trọng D; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Trần Trọng D là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 461/KL - KTHS (MT) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Trọng D không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo ân hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng là anh Lưu Huy H và ông Trần Văn Nh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra ông Nh và anh H đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội: lời khai của bị cáo Trần Trọng D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 14-12-2022 tại trụ sở Công an thị trấn Hưng Nhân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và bản ảnh vật chứng do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 16 giờ 05 phút ngày 14-12-2022 tại trụ sở Công an thị trấn Hưng Nhân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 461/KL - KTHS (MT) ngày17-12-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người làm chứng là anh Lưu Huy H và ông Trần Văn Nh. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 10 phút ngày 14-12-2022, tại đoạn đường quốc lộ 39A thuộc địa phận tổ dân phố Tây Xuyên, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, bị cáo Trần Trọng D có hành vi tàng trữ trái phép 0,1433 gam ma tuý, loại heroine, mục đích sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Trọng D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định như sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

……………………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Trọng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Trần Trọng D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp sức khỏe của chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng; về tình tiết tăng nặng: bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Cai nghiện bắt buộc”.Sau khi chấp hành xong hình phạt nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng, cải tạo mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo có một tiền sự: bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà thu giữ của bị cáo Trần Trọng D vào ngày 14-12-2022. Sau khi giám định, cơ quan giám định đã hoàn trả mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong 461/KL - KTHS (MT) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị Công an huyện Hưng Hà thu giữ ngày 14-12- 2022. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo D khai mua ở khu vực cầu Triều Dương, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà của 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: bị cáo Trần Trọng D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Trần Trọng D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Trọng D 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 14-12-2022.

3. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 0,1155gam (Không phẩy một nghìn một trăm năm mươi lăm gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu giữ của Trần Trọng D trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 461/KL-KTHS(MT) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28-02-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Trọng D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Trần Trọng D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2023/HS-ST

Số hiệu:21/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về