Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 192/2022/HS-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 189/2022/TLST- HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 6 năm 2022 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Trần Xuân C; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1988, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Thôn D L, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Đăng K (đã chết); Con bà: Lê Thị L; sinh năm 1963; Chung sống như vợ chồng với chị Lò Thị D; sinh năm 1988; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2020; Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 28/3/2012, Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 106/2012/HSST. Ngày 12/5/2014 Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Bản án này đã được xóa án tích, nhưng Bị cáo có nhân thân xấu.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 21/4/2022 Trần Xuân C đi bộ từ nhà ở Thôn D L, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên cầm theo 100.000 đồng đến bản X, xã T A, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên tìm hồng phiến để sử dụng. Bị cáo đi đến giữa khu vực bản X, xã T A thì gặp một người thanh niên dân tộc Thái, khoảng 20 tuổi (không biết tên, địa chỉ). Bị cáo hỏi người thanh niên có Hồng phiến bán không bán cho Bị cáo 100.000 đồng, người thanh niên trả lời “Có, 100.000 đồng được 04 viên Hồng phiến, mua thì mang tiền đây”. Bị cáo bảo “có” sau đó lấy tiền trong túi quần bên phải đang mặc đưa cho người thanh niên đó, người thanh niên cầm tiền đưa lại cho Bị cáo 01 gói được gói bằng nilon màu hồng, miệng gói được buộc thắt nút lại. Bị cáo cầm lấy và xem bên trong gói nilon màu hồng có 04 viên Hồng phiến màu hồng, Bị cáo cho gói Hồng phiến đó vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cho vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Bị cáo đi bộ về nhà được một đoạn bị tổ công tác Đội Cảnh sát ĐTTP về Kinh tế và Ma túy Công an huyện Đ B đang làm nhiệm vụ và đã yêu cầu Bị cáo dừng lại để kiểm tra và phát hiện thu giữ tại túi quần bên trái Bị cáo đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói được gói bằng nilon màu hồng, miệng gói được buộc thắt nút lại, bên trong có 04 viên Hồng phiến màu hồng. Tổ công tác mời người chứng kiến đến tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật đối rồi đưa về Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B để điều tra làm rõ.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 21/4/2022 đã xác định: Số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Trần Xuân C có khối lượng là 0,39 gam, gửi toàn bộ giám định, hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,25 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 585/KL- KTHS ngày 29/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu các viên nén màu hồng được gửi đi từ vật chứng thu giữ của Trần Xuân C gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 105/CT-VKSĐB ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B truy tố bị cáo Trần Xuân C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 04 tháng về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 0,25 gam Methamphetamine là vật chứng hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Xuân C khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 21/4/2022 tại khu vực bản X, xã T A, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. Bị cáo đã có hành vi cất giấu trái phép tại túi quần bên trái 0,39 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c).... Methamphetamine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy h iểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của Bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 12/12, nghỉ học ở nhà làm ruộng giúp gia đình.

Ngày 28/3/2012, Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 106/2012/HSST. Ngày 12/5/2014 Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Bản án này đã được xóa án tích, nhưng Bị cáo có nhân thân xấu.

- Năm 2019, Bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Lò Thị Duyên; sinh năm 1988; Bị cáo có 01 người con chung sinh năm 2020. Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2010 cho đến ngày bị bắt.

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình , đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngày 21/4/2022 Bị cáo bị Tổ công tác Đội Cảnh sát ĐTTP về Kinh tế và Ma túy Công an huyện Đ B bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của Bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của Bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án gồm: 0,25 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng hết giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Các vấn đề khác: Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người thanh niên dân tộc Thái khoảng 20 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) nên không đủ thông tin để xác minh, triệu tập điều tra làm rõ. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B, tỉnh Điện Biên không đề cập xử lý trong vụ án này, nên HĐXX không xem xét xử lý.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, ngư ời tiến hành tố tụng:

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST. Tuy nhiên gia đình Bị cáo thuộc hộ cận nghèo tại địa phương, tại phiên tòa Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST. Vì vậy theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân C phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt Bị cáo: 01 năm 02 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (21/4/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,25 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng hết giá trị sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/5/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HS-ST

Số hiệu:192/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về