Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 181/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thùy D, sinh năm 1999; HKTT: xóm T, xã H, huyện H, tỉnh N; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T (sinh năm 1949) và bà: Nguyễn Thị T1 (sinh năm 1958); Danh chỉ bản số 06, lập ngày 22/12/2021 tại Công an quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2019 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, đuợc trừ thời gian từ ngày 15/01/2021 đến ngày 14/6/2021 (bản án đã có hiệu lực pháp luật).

Bị bắt quả tang ngày 15/12/2021, tạm giữ: từ ngày 16/12/2021; tạm giam: từ ngày 25/12/2021; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn T (Bố đẻ của bị cáo), sinh năm 1949; HKTT: xóm T, xã H, huyện H, tỉnh N (xin vắng mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Gia L - Luật sư Văn phòng luật sư Hội tụ trí tuệ - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 15 tháng 12 năm 2021, tại trước số nhà 112 Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội, tổ công tác công an phường Tân Mai làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thùy D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại chỗ, Nguyễn Thùy D tự nguyện giao nộp trong túi áo khoác phía trước bên phải đang mặc 01 bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 túi nilông màu trắng kích thước khoảng (1,5x2) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. D khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy đá đang mang về để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, đưa Nguyễn Thùy D cùng tang vật về trụ sở để làm rõ.

Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Hoàng Mai đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ của D. Tại Kết luận giám định số 8936/KLGÐ-PC09 ngày 23/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,317 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thùy D khai nhận: D và Nguyễn Mạnh K (sinh năm 1973; HKTT: 845H22 T, quận H, Hà Nội) quen nhau được khoảng 10 ngày, hiện D cùng K sống như vợ chồng tại nhà trong ngõ 147/2 Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khoảng 12 giờ ngày 15/12/2021, D và K đi bộ ra khu vực chân cầu vượt Tân Mai ăn bánh chuối. Tại đây, D gặp 01 người phụ nữ điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH mode không rõ BKS (D không rõ nhân thân lai lịch) là bạn xã hội của K. Sau khi K nói chuyện, cả ba người quay lại nhà K. Tại đây, D thấy K đưa cho nguời phụ nữ 200.000 đồng và nhờ đi mua “Đồ” thì D hiểu là K nhờ người phụ nữ đi mua ma túy để D và K cùng sử dụng, người phụ nữ đồng ý. Sau đó, người phu nữ này điều khiển xe máy chở D đến đường 2,5Tân Mai, khi đến đầu phố Nguyễn Chính thì bảo D xuống xe đứng chờ rồi người phụ nữ đi vào phố Nguyễn Chính. Một lúc sau, người phụ nữ đi ra và đưa cho D 01 bao thuốc lá Thăng Long và bảo D đây là ma túy. D cầm bao thuốc và cất trong túi áo khoác phía trước bên phải đang mǎc. Người phụ nữ nói có việc gấp phải vào viện và bảo D tự đi bộ về. Trên đường đi về đến khu vực trước số nhà 112 Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội thì D bị tổ công tác kiểm tra, bắt giữ cùng tang vật.

Tiến hành dẫn giải D đến trong ngõ 147/2 Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội, D đã chỉ được nhà của K sinh sống tại địa chỉ 845H22 T, quận H, Hà Nội. Tiến hành cho D nhận dạng qua ảnh đối với Nguyễn Manh K, D đã nhận dạng được K là người đã ăn ở sinh sống cùng D tại địa chỉ 845H22 T, quận H, Hà Nội.

Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập và làm việc với Nguyễn Mạnh K, K khai: K có quen Nguyễn Thùy D qua mạng xã hội và nảy sinh tình cảm nên thỉnh thoảng D có đến nhà K chơi và ngủ lại tại địa chỉ 845H22 T, quận H, Hà Nội. Trưa ngày 15/12/2021, khi K và D đang ngồi uống nước tại chân cầu Vĩnh Tuy thì có một người phụ nữ K quen qua mạng xã hội, K không rõ tên tuổi địa chỉ đi xe máy qua và người phụ nữ có đi vào gặp K nói chuyện và đòi nợ K số tiền 200.000 đồng. K không cầm đủ tiền nên cả ba về nhà K tại địa chỉ 845H22 T, Hoàng Mai, Hà Nội. K lấy 200.000 đồng đưa trả cho người phụ nữ. Sau đó, D và người phụ nữ rủ nhau đi đâu K không biết. K không sử dụng ma tuý chung với D cũng không nhờ ai mua hộ ma túy. Việc D bị cơ quan công an bắt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy K không biết. Quá trình điều tra K đã chuyển đi nơi khác, hiện không xác định được K đang ở đâu.

Cơ quan công an đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Thùy D tới nơi đứng chờ người phụ nữ đưa ma túy cho D, xác định được địa điểm nơi người phụ nữ đưa ma túy cho D tại khu vực đầu phố Nguyễn Chính, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội nhưng không xác định được người phụ nữ đưa ma túy cho D nên không có căn cứ đế xử lý.

Quá trình điều tra xác định bị can Nguyễn Thùy D có bệnh án tâm thần do Bệnh viện tâm thần Nam Định cấp. Ngày 07/3/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai ra Quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với Nguyễn Thuỳ D tại Viện pháp y tâm thần trung ương. Tại Kết luận Giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 124/KLGĐ ngày 10/5/2022 của Viện pháp y tâm thần trung ương, kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Nguyễn Thùy D bị hội chứng nghiện các chất gây ảo giác trên người chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F16.2/F70. Tại các thời điểm trên bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khển hành vi.

Đối với Nguyễn Mạnh K và người phụ nữ mua ma túy cho D ngoài lời khai của D thể hiện việc K nhờ người phụ nữ mua ma túy cho D và K sử dụng chung. Ngoài ra, không có chứng cứ nào khác nên cơ quan điều tra không có cǎn cứ để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 153/CT-VKS-HM ngày 26 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố Nguyễn Thùy D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Thùy D thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai tham gia phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên nội dung truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thùy D với mức hình phạt từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp với hình phạt 14 tháng tù của bản án số 69/2022/HS- ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả 2 bản án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 14/6/2021; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,317 gam Methamphetamine và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến về tội danh và điều luật Viện kiểm sát truy tố bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ hình phạt: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình bị cáo là phụ nữ chưa lập gia đình, có bố mẹ già, bị cáo là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị cáo thành khẩn khai báo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị để bị cáo có điều kiện cải tạo, sớm trở về với gia đình và hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 15 tháng 12 năm 2021, tại trước số nhà 112 Tân Mai, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thùy D có hành vi tàng trữ trái phép 0,317 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự. Hành vi đó không những đã vi phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, mà còn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương. Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thùy D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thùy D thành khẩn khai báo, bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, q khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Thùy D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Tháng 01/2021 Nguyễn Thùy D có hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, trong khi chờ xử lý lại phạm tội lần này, bản án số 69/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt bị cáo 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuy không coi là tái phạm, nhưng cần xử lý nghiêm. Vì vậy, áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 14 tháng tù của bản án hình sự số 69/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 2 bản án.

Ngoài ra, năm 2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

[4] Về quyết định hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân chấp hành pháp luật, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Nguyễn Thùy D là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bao niêm phong bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước 1,5x2 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,317 gam là vật cấm tàng trữ, lưu hành và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng kích thước 5,5x8,5 cm không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với đối tượng Nguyễn Mạnh K và người phụ nữ mua ma túy cho D chỉ có lời khai của D thể hiện việc K nhờ người phụ nữ mua ma túy cho D và K sử dụng chung. Quá trình điều tra, K không thừa nhận nhờ người phụ nữ mua ma túy. Ngoài ra, không có chứng cứ nào khác nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai không đủ cǎn cứ để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Căn cứ các điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thùy D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thùy D 18 (mười tám) tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 14 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 69/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, buộc bị cáo Nguyễn Thùy D phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 32 (ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2021, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam của bản án số 69/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, từ ngày 15/01/2021 đến ngày 14/6/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thùy D.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước 1,5x2 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,317 gam và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng kích thước 5,5x8,5 cm.

(Toàn bộ vật chứng hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội theo Phiếu nhập kho số NK2022- 0207 ngày 27 tháng 5 năm 2022).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thùy D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2022/HS-ST

Số hiệu:181/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về