Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2023/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Dương L, sinh năm 1999 tại tỉnh Cà Mau; nơi ĐKNKTT: Ấp TLA, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Hồng T; anh, chị, em ruột: 04 người; vợ: Nguyễn Thị D (chết); con: Không; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt ngày 16/3/2023 đến ngày 23/3/2023 chuyển sang tạm giam cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Đức T, sinh năm 2002; địa chỉ: Ấp TT, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào lúc 22 giờ 10 phút ngày 16/3/2023, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Đầm Dơi kết hợp Công an thị trấn Đầm Dơi làm nhiệm vụ tuần tra trên địa bàn thị trấn Đầm Dơi thì phát hiện xe mô tô biển kiểm soát số 69F1-735.xx do anh Trần Đức T điều khiển chở Nguyễn Dương L có biểu hiện nghi vấn, tiến hành kiểm tra phát hiện Linh cất giấu 01 túi nilon màu trắng trong khẩu trang nghi là ma túy.

Tại kết luận giám định số 120/KL-KTHS ngày 19/3/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong gói nilon màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4149 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon, bên trong có chứa nhiều hạt màu trắng;

01 khẩu trang màu xám; 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1820 màu xanh, có gắn sim số 0839.310.6xx; tiền Việt Nam đồng 850.000 đồng; 01 xe mô tô biển kiểm soát số 69F1-735.xx kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Đức T.

Từ những tình tiết nêu trên, Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Nguyễn Dương L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Dương L trình bày: Bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh Trần Đức T trình bày: Anh không biết bị cáo mua ma túy và cất giấu trên người.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo L từ 02 năm tù đến 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1820 màu xanh, có gắn sim số 0839.310.6xx; 01 xe mô tô biển kiểm soát số 69F1-735.xx kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Đức T đã trả cho chủ sở hữu là phù hợp. Trả lại cho bị cáo số tiền 850.000đ. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,1741 gam tinh thể màu trắng; phong bì hình chữ nhật; 01 bọc nilon dùng để gói tinh thể màu trắng; 01 khẩu trang màu xám. Đối với Trần Đức T không biết bị cáo mua và tàng trữ trái phép chất ma túy nên không đặt ra xử lý hình sự. Đối với người tên P và người bán ma túy cho bị cáo do không xác định họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố. Xét thấy: Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo, anh T và người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào lúc 22 giờ 10 phút ngày 16/3/2023 tại khóm 1, thị trấn Đầm Dơi, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau bị cáo Nguyễn Dương L đã cất giấu 01 túi nilon màu trắng có chứa ma túy trong khẩu trang với mục đích dùng để sử dụng. Theo kết luận giám định kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong gói nilon màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4149 gam, loại Methamphetamine.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c)Heroine, Cocaine, Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Do đó, Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 10/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Nguyễn Dương L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiện hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước về các chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an ở địa phương mà còn gián tiếp làm phát sinh nhiều tội phạm và tệ nạn xã hội khác.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm để răn đe, cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Đối với anh Trần Đức T: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên Tòa, bị cáo và anh T đều xác định anh T không biết bị cáo mua ma túy và cất giấu ma túy trên người nên không xử lý hình sự đối với anh T là phù hợp.

[6] Đối với ông P và người bán ma túy cho bị cáo: Do không xác định họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1820 màu xanh, có gắn sim số 0839.310.6xx; 01 xe mô tô biển kiểm soát số 69F1-735.xx kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Đức T không phải là công cụ, phương tiện phạm tội và đã trả cho chủ sở hữu là phù hợp quy định của pháp luật.

- Số tiền 850.000đ là của bị cáo không được dùng để mua ma túy và bị cáo có yêu cầu được nhận lại nên trả lại cho bị cáo.

- 0,1741 gam tinh thể màu trắng; phong bì hình chữ nhật; 01 bọc nilon dùng để gói tinh thể màu trắng; 01 khẩu trang màu xám là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Dương L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Dương L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Dương L số tiền 850.000đ (tám trăm năm mươi ngàn đồng), bị cáo được nhận lại tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1741 gam tinh thể màu trắng; phong bì hình chữ nhật;

01 bọc nilon dùng để gói tinh thể màu trắng; 01 khẩu trang màu xám.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/5/2023) 3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Dương L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, anh Trần Đức T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2023/HS-ST

Số hiệu:16/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về