Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 và ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 06/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 01/3/2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn S, sinh ngày 01/11/1982 Nơi cư trú: thôn 21, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 và bà Đỗ Thị O, sinh năm 1960; Anh, chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là thứ nhất; Vợ: Đinh Thị H, sinh năm 1987 (đã ly hôn); Con: có 01 người, sinh năm 2007.

* Tiền án, tiền sự: Không.

* Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/10/2020 đến ngày 06/11/2020, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa: Ông Hoàng Văn V, sinh năm 1982, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tuyên Quang Địa chỉ: Số 6, đường Chiến Thắng Sông Lô, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 28/10/2020, Nguyễn Văn S, cư trú tại thôn 21, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, là người sử dụng ma túy, một mình đi xe buýt từ nhà đến gần khu vực Bia Chiến Thắng, thuộc xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang thì xuống xe, đi bộ mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại khu vực gần Bia Chiến Thắng, S gặp và hỏi mua được 01 gói nhỏ Heroine, bọc ngoài bằng giấy màu trắng, với số tiền 500.000 đồng của một người đàn ông không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ. S cất giấu gói Heroine vừa mua được trong ví, để trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ để đón xe khách về nhà; khi đến khu vực tổ 02, phường L, thành phố T thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày, thu giữ 01 gói Heroine.

Kết luận giám định số 833/GĐKTHS ngày 31/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định (chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo) là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,319g (Không phẩy ba một chín gam).

Kết quả tìm chất ma túy trong cơ thể bị cáo Nguyễn Văn S là (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể. Bị cáo khai nhận các ngày 24, 25/10/2020 đã sử dụng Heroine tại nhà do mua của một người đàn ông, không xác định được tên tuổi, địa chỉ tại khu vực xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn S, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,269g Heroine (khối lượng ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định) là vật chứng của vụ án. Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng; ngày 22/12/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKSTP ngày 14 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo xuất trình tài liệu chứng minh bị cáo là người khuyết tật nặng, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm p, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù;

Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy đã thu giữ của bị cáo (là tang vật của vụ án, khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định) - Tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, bị cáo không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình và nhờ người bào chữa trình bày ý kiến tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ xác định bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người khuyết tật nặng và thuộc hộ nghèo do vậy đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo đượng hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng Điều 65 để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn S tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định và cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 28/10/2020, tại khu vực tổ 02, phường L, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nguyễn Văn S, cư trú tại thôn 21, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,319g (Không phẩy ba một chín gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, hành vi của bị cáo cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và là người khuyết tật nặng nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T. Khi quyết định hình phạt HĐXX, xét thấy, bị cáo đã ở tuổi trưởng thành, nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế và an ninh trật tự xã hội, xác định được hậu quả của việc tàng trữ ma túy trái phép nhưng vẫn thực hiện. Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy trong thời gian rất ngắn từ ngày 24/10/2020 đến ngày 28/10/2020 bị cáo đã nhiều lần mua ma túy và sử dụng ma túy (trong đó có một lần bị cáo bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố trong vụ án này), đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nhưng qua đó đánh giá về ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém và khó có khả năng tự cải tạo, tu dưỡng bản thân tại địa phương. Hơn nữa tệ nạn về ma túy là vấn đề rất nhức nhối trong xã hội hiện nay, việc bài trừ ma túy ra khỏi xã hội là việc làm cấp thiết của toàn thể cộng đồng, hệ lụy về việc sử dụng ma túy không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn gây suy kiệt giống nòi, suy đồi đạo đức và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt nghiêm khắc tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn bị cáo là người khuyết tật nặng, nên xem xét cho bị cáo mức án như Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị là phù hợp.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, thuộc hộ nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 24 và ngày 25/10/2020 của bị cáo. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính, hinh thức phạt cảnh cáo tại Quyết định số 63 ngày 06/11/2020.

Đối với người đàn ông, theo Nguyễn Văn S khai nhận là người bán Heroine cho Sự vào ngày 24/10/2020 và người đàn ông đã bán Heroine cho Sự vào ngày 28/10/2020 tại khu vực xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra xử lý. Do vậy, HĐXX không xem xét.

Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn S, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,269g Heroine (khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định) là vật chứng của vụ án. Xét thấy khối lượng heroin này là tang vật của vụ án, là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng, ngày 22/12/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến gì về điện thoại nên HĐXX không xem xét.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm p, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/10/2020 đến ngày 06/11/2020. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn S, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có 0,269 gam Heroine (khối lượng ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định);

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T ngày 21/01/2021.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 12/3/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2021/HS-ST

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về