Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 159/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 159/2022/HS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/5/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 163/2022/HSST ngày 20/4/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2022/QĐXX-HS ngày 06/5/2022 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lường Văn T. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh năm 1991. Tại Điện Biên Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không.Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Lường Văn P sinh năm 1960. Con bà: Lò Thị S sinh năm 1965. Bị cáo chưa có vợ, con: Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/12/2011 bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Ngày 14/8/2017 bị TAND huyện Đ xử 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 27/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, bản án này hiện nay đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/01/2022 có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 07/01/2022, Lường Văn T đi bộ một mình từ nhà ở bản H, xã T, huyện Đ đến khu vực bản X, xã T, huyện Đ với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T gặp và mua được 01 gói nilon màu trắng bên trong có 02 viên Methamphetamine với giá 125.000đ của 01 người đàn ông dân tộc T khoảng 40 tuổi (không rõ tên, địa chỉ). Mua bán xong T cầm gói ma túy ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Khi về đến nhà, T lấy 01 viên Methamphetamine ra sử dụng hết bằng hình thức hút, sau đó vứt bỏ mảnh nilon màu trắng gói bên ngoài rồi cất giấu 01 viên Methamphetamine còn lại trên mặt đệm đầu giường ngủ của T. Đến 10 giờ 50 phút ngày 09/01/2022 khi T đang ngồi trên giường ngủ chuẩn bị sử dụng viên Methamphetamine còn lại thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ vào nhà kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu giữ trên mặt đệm giường ngủ của Tiến 01 viên Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 09/01/2022 đã xác định: 01 viên nén màu hồng ghi ma túy tổng hợp có khối lượng 0,1 gam gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số 192/GĐ-PC09 ngày 17/01/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lường Văn T gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKSĐB ngày 19/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lường Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lường Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Không còn vật chứng để xử lý.

Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí HSST.

Tại phiên tòa bị cáo Lường Văn T một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 09/01/2022, tại bản H xã T, huyện Đ Lường Văn T có hành vi cất giấu trái phép trong nhà 0,1gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,1 gam kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,1 gam Methamphetamine trong nhà mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma tỳy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cỏo thực hiện thuộc trường hợp nghiờm trọng làm ảnh h•ởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Song vỡ nhu cầu của bản thõn bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cỏo nghiờm minh theo quy định của pháp luật.

 [3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:

Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã T, huyện Đ. Bản thân được học đến lớp 10/12 nghỉ học, bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2012. Ngày 30/12/2011 bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Ngày 14/8/2017 bị TAND huyện Đ, xử 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 27/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, bản án này hiện nay đã được xóa án tích. Mặc dù đã xóa án tích điều này cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy. Xét đề nghị của VKS là phù hợp HĐXX chấp nhận.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thõn lại nghiện chất ma tuý. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi bị cáo đã gặp tại bản X, xã T đã bán ma túy cho bị cáo, do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án 0,1 gam Methamphetamine gửi toàn bộ giám định không hoàn lại nên không còn vật chứng để xử lý.

[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lường Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự 2015. Điều 331; Điều 333 Bộ Luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lường Văn T 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 09/01/2022)

3. Vật chứng: 0,1 gam Methamphetamine gửi toàn bộ giám định không hoàn lại nên không còn vật chứng để xử lý.

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lường Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 19/5/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 159/2022/HS-ST

Số hiệu:159/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về