Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 153/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 190/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

V.N.T; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1994 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký thường trú: không có nơi đăng ký thường trú; chỗ ở: Phòng số 104, Nhà nghỉ T.N, ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con bà V.N.A, không rõ họ tên cha; chồng (không đăng ký kết hôn); Con: 02 người con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 85/2015/HSST ngày 21/4/2015; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2021 (hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hóc Môn). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

V.N.T nghiện sử dụng ma túy đá từ đầu năm 2021. Tuyền có quen với người bạn trai tên T (không rõ lai lịch) và thường thuê phòng tại các nhà trọ tại địa bàn huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh để ở và sử dụng ma túy. Ma túy có nguồn gốc do T mua, T không biết Th đã mua của ai, từ đâu. Khoảng giữa tháng 4/2021, T thuê trọ tại phòng số 104, Nhà nghỉ T.N, ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 29/4/2021, do hết ma túy sử dụng, Tuyền đưa cho T số tiền 500.000 đồng để mua ma túy đá. Khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, T mang gói ma túy đá trở về phòng trọ, T và T lấy một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại bỏ vào khoảng trống giữa vách tường và thành giường được ký hiệu mẫu m. Sau đó, T ngủ tại phòng trọ, T bỏ đi đâu không rõ. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 30/4/2021, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an xã Bà Điểm kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang Vũ Ngọc Tuyền cất giấu ma túy để sử dụng như trên.

Tại Cơ quan điều tra, V.N.T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 2910/KLGĐ-H ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,0181 gam, loại Methamphetamine.

Tại Bản cáo trạng số: 161/CT-VKS-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo V.N.T ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hố Chí Minh để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân huyện H.M đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo V.N.T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số vụ 2639/21 bên ngoài có chữ ký của V.N.T (người bị bắt), Cán bộ điều tra V.S.T và Giám định viên V.A.T, bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định; 01 bình nhựa trên có gắn 01 ống hút nhựa, 01 đầu đoạn thủy tinh bên trong không chứa gì, 01 hột quẹt gas và 01 cây kéo kim loại Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu vàng đồng, không rõ số IMEI có gắn sim số 0903733720 (đã qua sử dụng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, bị cáo V.N.T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không trình bày bổ sung và không có ý kiến tranh luận với nội dung truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H.M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H.M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, qua phần hỏi và tranh tụng công khai, bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H.M đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ được tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ma túy; Bản kết luận giám định số: 2910/KLGĐ-H ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,0181 gam, loại Methamphetamine. Từ đó, có đủ cơ sở chứng minh vào rạng sáng ngày 30/4/2021, bị cáo V.N.T có hành vi tàng trữ trái phép 2,0181 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng và bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang tại phòng số 104, Nhà nghỉ T.N, ấp H.L, xã B.Đ, huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamine mà bị cáo đã tàng trữ nhằm mục đích sử dụng là 2,0181 gam. Do đó, Bản cáo trạng số:

161/CT-VKS-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo V.N.T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”

[4] Áp dụng điều luật được viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 85/2015/HSST ngày 21/4/2015. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma túy, không có nơi cư trú và không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi số vụ 2639/21 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 1,7183 gam, bên ngoài có chữ ký của V.N.T (người bị bắt), Cán bộ điều tra V.S.T và Giám định viên V.A.T thuộc loại vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 bình nhựa trên có gắn 01 ống hút nhựa, 01 đầu đoạn thủy tinh bên trong không chứa gì, 01 hột quẹt gas và 01 cây kéo kim loại thu giữ của bị cáo, do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu vàng đồng, không rõ số IMEI có gắn sim số 0903733720 (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo, do không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Đối với đối tượng tên T, do không xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo V.N.T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo V.N.T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 30/4/2021.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tạm giam bị cáo Vũ Ngọc Tuyền thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi số vụ 2639/21 bên ngoài có chữ ký của Vũ Ngọc Tuyền (người bị bắt), Cán bộ điều tra V.S.T và Giám định viên V.A.T, bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bình nhựa trên có gắn 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) đầu đoạn thủy tinh bên trong không chứa gì; 01 (một) hột quẹt gas; và 01 (một) cây kéo kim loại.

Trả lại cho bị cáo V.N.T 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, màu vàng đồng, không rõ số IMEI có gắn sim số 0903733720 (đã qua sử dụng).

Vật chứng của vụ án hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.M, Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 9 năm 2021.

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Buộc bị cáo V.N.T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 153/2021/HS-ST

Số hiệu:153/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về