Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2022/HS-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2022/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2021 và Quyết định thay đổi Thẩm phán số 125a/2022/QĐ-TA ngày 04 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm: 1991, tại Sóc Trăng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Nhà trọ số XX, Quốc lộ X, Khu phố Y, phường Z, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Nguyễn Văn Đ (©) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1966; bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 04 anh chị em; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tạm giam từ ngày 09/11/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C sử dụng ma túy từ khoảng tháng 8/2021. Khoảng 23 giờ ngày 08/11/2021, C đón xe ôm đi từ ngã tư P đến cầu vượt Quang Trung, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh sau đó đi bộ xung quanh tìm mua ma túy để sử dụng, C gặp 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) mua 06 gói nylon nhỏ hàn kín bên trong chứa ma túy tổng hợp với giá 1.000.000 đồng, người đàn ông để số ma túy vào 01 gói nylon màu trắng có chữ Salonpas rồi giao cho C, C cất giấu số ma túy vừa mua được vào túi quần sau bên phải đang mặc rồi đón xe ôm trở về ngủ tại phòng trọ: Nhà trọ số XX, Quốc lộ Z, Khu phố Y, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến 09 giờ 30 phút ngày 09/11/2021, khi C còn đang nằm ngủ thì bị Công an phường Vkiểm tra, phát hiện thu giữ 01 gói nylon màu trắng có chữ Salonpas bên trong có 06 gói ny lon chứa ma túy tổng hợp nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật. Kết quả xét nghiệm ma túy đối với Nguyễn Văn C là dương tính với Methamphetamine.

Kết luận giám định số 6066/KLGD-MT ngày 16/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, tinh thể không màu trong 06 gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1281g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn C khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên là phù hợp với lời khai người chứng kiến, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

* Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1340/21 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C và Cán bộ điều tra Nguyễn Trường G, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,9868g, loại Methamphetamine;

- 01 gói nylon màu trắng có chữ Salonpas;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng vàng thu giữ của Nguyễn Văn C, C không dùng để liên hệ mua ma túy.

Tại Cáo trạng số: 140/CT-VKSTP.TĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức vẫn giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2021.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi theo cáo trạng của Viện kiểm sát và luận tội của Viện kiểm sát, đồng ý với kết luận giám định và không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi của mình, rất mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[2] Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ... cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được trong quá trình điều tra về hành vi, thời gian, không gian, địa điểm xảy ra tội phạm, phù hợp với cáo trạng của Viện kiểm sát nên có cơ sở xác định: Khong 09 giờ 30 phút ngày 09/11/2021, tại Nhà trọ số XX, Quốc lộ X, Khu phố Y, phường Z, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1281 gram, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, tiếp tay cho các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy nên bị cáo đã cố ý mua và cất giấu ma túy trong người để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho C không xác định rõ lai lịch nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục truy xét và xử lý sau.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 1,1281 gram, loại Methamphetamine nên thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nghiện ma túy nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,9868g, loại Methamphetamine: Xét đây là chất ma túy nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 gói nylon màu trắng có chữ Salonpas là tang vật của vụ án không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng vàng, bị cáo không dùng để liên hệ mua ma túy nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng vàng có số IMEI: 355079080323749, IMEI: 355080080323747.

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1340/21, bên ngoài có dấu vân tay (ghi tên C), có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C và Cán bộ điều tra Nguyễn Trường G, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,9868g, loại Methamphetamine;

+ 01 gói nylon màu trắng có chữ Salonpas.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 64/QĐ-VKS ngày 05/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/4/2022 giữa Công an thành phố Thủ Đức và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2022/HS-ST

Số hiệu:151/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về