Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 150/2021/HS-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 134/2021/TLHS- HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Trịnh Văn T, sinh năm 1997 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Xóm 1, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn M và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 27/02/2018 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng (chấp hành xong ngày 06/12/2019); nhân thân: Ngày 29/8/2017 Công an xã Liêm C, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 18/9/2017 Chủ tịch UBND xã L, thành phố P quyết định áp dụng giáo dục tại xã bằng biện pháp cai nghiện tại gia đình; ngày 23/01/2018 Công an xã L xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25 tháng 6 năm 2021, chuyển tạm giam từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Dương Ngọc D, sinh năm 1990; nơi cư trú: Xóm 1, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Lê Văn L, sinh năm 1983; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 25/6/2021, Trịnh Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29U1-X đến tổ dân phố B, phường T, thành phố P tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, T gặp và mua 01 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá 500.000 đồng của một người thành niên không quen biết đang đứng ở ven đường. Sau khi mua được gói ma túy thì T không mở ra kiểm tra mà cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến đoạn đường thuộc tổ dân phố Đ, phường T thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố P thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. T tự nguyện giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa 07 viên nén màu hồng đỏ và khai nhận là ma túy vừa mua được, mục đích cất giấu là để sử dụng. Lực lượng công an đã đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình bắt quả tang thu giữ vật chứng, tài sản gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa 07 viên nén màu hồng đỏ được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Trịnh Văn T; 01 đăng ký mô tô xe máy mang tên Ngô Thị Mai L; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển kiểm soát 29U1-X; 01 điện thoại nhãn hiệu Matstel màu vàng cát, màn hình bị rạn nứt.

Ngày 25/6/2021 Công an phường T đã chuyển hồ sơ, đối tượng Trịnh Văn T cùng vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (viết tắt CSĐT) Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 26/6/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Trịnh Văn T ở xóm 1, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 146/PC09-MT ngày 30/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,679 gam loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 148/CT-VKS-PL ngày 01/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Trịnh Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trịnh Văn T theo nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trịnh Văn T từ 30 đến 36 tháng tù, thời gian được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 25/6/2021).

+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Methamphetamin thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói mẫu vật. Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe số 350213915X và 01 giấy chứng minh nhân dân số 168578X đều mang tên Trịnh Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Matstel màu vàng cát. Trả lại cho anh Dương Ngọc D 01 xe mô tô biển kiểm soát 29U1- X màu đen trắng nhãn hiệu Yamaha Sirius và 01 đăng ký mô tô xe máy số 007581 mang tên Ngô Thị Mai L.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu, không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trịnh Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 25/6/2021, tại tổ dân phố Đ, phường T, thành phố P, Trịnh Văn T đang cất giấu trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,679 gam, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạnh của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với Trịnh Văn T là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền sự năm 2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy và các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã được giáo dục tại xã và năm 2018 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội mà lại có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy, loại Methamphetamine được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật cấm tàng trữ, do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 29U1-X và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 007581 mang tên Ngô Thị Mai L là tài sản hợp pháp của anh Dương Ngọc D, anh D không biết T mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại chiếc xe trên cho anh D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân số 168578X, 01 giấy phép lái xe số 350213915X đều mang tên Trịnh Văn T và 01 điện thoại nhãn hiệu Matstel là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về các tình tiết khác của vụ án:

Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo Trịnh Văn T, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn T 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 25 tháng 6 năm 2021).

2/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong mặt trước ghi “mẫu vật hoàn trả QT01” số 146/PC09-MT.

Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe số 350213915X và 01 giấy chứng minh nhân dân số 168578X đều mang tên Trịnh Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Matstel màu vàng cát số IMEI1: 358111035448029, số IMEI2: 358111035548026.

Trả lại cho anh Dương Ngọc D 01 xe mô tô biển kiểm soát 29U1-X màu đen trắng nhãn hiệu Yamaha Sirus số máy 438573, số khung 438568 và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 007581 mang tên Ngô Thị Mai L.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 04/10/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trịnh Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2021/HS-ST

Số hiệu:150/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về