Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 144/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 144/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh S, sinh năm 1998, tại tỉnh K. Hộ khẩu thường trú: Ấp K, xã T, huyện G, tỉnh K; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1961 và bà Trương Thị Bé T, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ con, có 04 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Kim L, sinh năm 2001, tại tỉnh T. Hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Khơme; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kim Pho L, sinh năm 1973 và bà Thạch Thị T, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ con, có 01 anh ruột sinh năm 1998. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Lê Văn L, sinh năm 1993, tại tỉnh Đ. Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T (không rõ năm sinh) và bà Huỳnh Thị Huỳnh H (không rõ năm sinh); bị cáo chưa có vợ con, có 01 em ruột sinh năm 1996. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Ông Lê Trung H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn L, Nguyễn Thanh S và Kim L là những người sử dụng trái phép chất ma túy, cùng ở trọ chung với nhau tại nhà trọ không số thuộc khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 20 giờ ngày 10/01/2022, Lê Văn L, Nguyễn Thanh S và Kim L, sau khi đi hát Karaoke về thì Lê Văn L rủ S và Kim L mỗi người góp 100.000 đồng đi mua túy đá sử dụng, tất cả đồng ý. Do trước đó Lê Văn L, S và Kim L góp tiền đưa cho S giữ để đi hát Karaoke còn dư nên Lê Văn L, S và Kim L thống nhất lấy ra 300.000 đồng để mua ma túy. Lê Văn L, S và Kim L đi bộ đến ngã ba (không tên) gần nơi ở trọ thuộc khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp 01 người thanh niên tên Sơn (chưa rõ lai lịch), S lấy ra 300.000 đồng mua của Sơn 01 gói ma túy đá được bảo quản trong gói nilon miệng kéo dính. Sau khi khi mua ma túy, S cất gói ma túy trong chiếc giày bên phải rồi tất cả đi tìm nơi sử dụng. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi Lê Văn L, S và Kim L đi đến trước số nhà 360 đường Nguyễn Thị Tươi, khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phường Tân Bình kiểm tra phát hiện trong chiếc giày bên phải của S đang đi có 01 gói nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng. S khai là ma túy đá của S, Lê Văn L và Kim L mới mua để sử dụng. Công an phường Tân Bình lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Sau đó lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An xử lý.

Tang vật thu giữ: 01 Gói nylon miện kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng, trong lượng 0,5066 gam; 01 Chiếc giày thể thao màu trắng.

Tại Kết luận giám định số 76/MT-PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận như sau: Tinh thể màu trắng trong 01 (gói) túi nylon miệng kéo dính thu giữ của Nguyễn Thanh S, Lê Văn L và Kim L, trọng lượng: 0,5065 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại Bản Cáo trạng số: 144/CT-VKS ngày 25/4/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quan điểm và quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

+ Xử phạt bị cáo Kim L từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

+ Xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

- Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,3469 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chiếc giày thể thao màu trắng không còn giá trị sử dụng đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông tên Sơn bán ma túy cho Lê Văn L, S và Kim L hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo có điều kiện cải tạo làm người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm Sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người chứng kiến ông Lê Trung H. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra người chứng kiến H đã có lời khai đầy đủ nên sự vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người chứng kiến theo quy định tại Điều 290 và 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 10/01/2022; Kết luận giám định số: 76/MT-PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 10/01/2022, tại trước khu vực nhà số 360 đường Huỳnh Thị Tươi, thuộc khu phố Tân Hiệp, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Thanh S và Kim L đã có hành vi cất giữ 0,5065 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng mà không phải là nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Như vậy, hành vi của các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Thanh S và Kim L đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo với tội danh, điều, khoản và điểm nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm, người sử dụng ma túy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng đồng thời là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, tạo nên ảnh hưởng xấu cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để có ma tuý cho bản thân sử dụng đã cố ý thực hiện tội phạm.

Do vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm cải tạo, giáo dục riêng cho các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo đủ để giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự phân công vai trò chặt chẽ nên không coi là phạm tội có tổ chức. Lê Văn L, Nguyễn Thanh S và Kim L là những người sử dụng trái phép chất ma túy, cùng nhau góp mỗi người góp 100.000 đồng mua túy, cùng nhau đi mua ma túy đá để sử dụng nên các bị cáo có vai trò như nhau trong vụ án.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy đã áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,3469 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chiếc giày thể thao màu trắng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với người đàn ông tên Sơn bán ma túy cho Lê Văn L, S và Kim L hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Từ những nhận định nêu trên, nhận thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 10/01/2022.

+ Xử phạt bị cáo Kim L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 10/01/2022.

+ Xử phạt bị cáo Lê Văn L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 10/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,3469 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chiếc giày thể thao màu trắng.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/4/2022).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Kim L và Lê Văn L có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

709
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 144/2022/HS-ST

Số hiệu:144/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về