Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 141/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 141/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/5/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 169/2022/HSST ngày 22/4/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2022/QĐXX-HS ngày 04/5/2022 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn O. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh năm 1984. Tại Điện Biên Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản C, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không.Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 5/12; Con ông: Lò Văn C sinh năm 1956. Con bà: Tòng Thị M, sinh năm 1958. Bị cáo có vợ: Cà Thị H (đã ly hôn); bị cáo có 3 con; con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2012: Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân: Ngày 30/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 22/6/2018 chấp hành xong án phạt tù, bản án này hiện đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/01/2022 đến nay có mặt tại phiên toà.

2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lường Thị S, sinh năm 1976. Trú tại thôn H, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên: (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 02/01/2022, Lò Văn O một mình điều khiển xe môtô biển kiểm soát 27B1-854.87 của chị họ O là Lường Thị S (sinh năm 1976, trú tại thôn H, xã N, huyện Đ) đi từ nhà ở bản C, xã N đến bản N, xã N, huyện Đ với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại bản N, O để xe môtô ở ngoài đường rồi một mình đi bộ vào nhà Lò Văn T, sinh năm 1981 để mua Methamphetamine. Tại nhà T, O hỏi và mua được của T 01 túi Methamphetamine với giá 2.000.000đ. Sau đó O cất giấu gói Methamphetamine vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi bộ ra ngoài đường lấy xe môtô và điều khiển xe về nhà. Hồi 15 giờ 00 phút cùng ngày khi O điều khiển xe đến khu vực bản N, xã N, huyện Đ thì bị Tổ công tác Đội cảnh sát Điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Đ phối hợp với tổ 4 Kế hoạch 1266 Công an tỉnh Đ phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại túi áo khoác bên trái O đang mặc 01 túi nilon màu trắng, miệng xoắn lại, bên trong có 01 túi nilon màu xanh, miệng có nẹp bấm cố định, mở bên trong có 198 viên Methamphetamine cùng chiếc xe máy.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 02/01/2022 đã xác định: Toàn bộ 198 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng 18,14 gam gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số 149/GĐ-PC09 ngày 10/01/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu các viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn O gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định là 9,56gam.

Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKSĐB ngày 21/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn O về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g Khoản 2 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm g Khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Văn O từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1, khoản 2 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.

Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí HSST.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn O một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Hồi 15 giờ 00 phút ngày 02/01/2022, tại khi vực bản N, xã N, huyện Đ. Lò Văn O đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 18,14 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 18,14 gam kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 18,14 gam Methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma tỳy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cỏo thực hiện thuộc trường hợp rất nghiờm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Song vỡ nhu cầu của bản thõn bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cỏo nghiờm minh theo quy định của pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:

Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã N. Bản thân được học đến lớp 5/12 nghỉ học, bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2014.

Ngày 30/11/2015 bị TAND huyện Đ xử 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 22/06/2018 chấp hành xong hình phạt tù, bản án này hiện nay đã được xóa án tích. Mặc dù đã xóa án tích điều này cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy. Xét đề nghị của VKS là phù hợp HĐXX chấp nhận.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thõn lại nghiện chất ma tuý. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của Lò Văn T. Quá trình điều tra không đủ căn cứ chứng minh Tuấn đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý. HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu huỷ: 9,56 gam Methamphetamine được hoàn lại sau giám định.

Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát 27B1-854.87 đăng ký mang tên Quàng Văn Y là xe của vợ chồng chị Lường Thị S anh Yên. Chị S cho bị cáo O mượn đi lại làm ruộng giúp chị S. Bị cáo đem xe đi và đã dùng làm phương tiện phạm tội. Song chị S không biết việc O đem đi mua ma túy, đây là tài sản hợp pháp của chị S nên HĐXX cần trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là Lường Thị S.

[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn O phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51/Bộ luật Hình sự 2015. Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn O phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn O 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 02/01/2022)

3. Vật chứng áp dụng: Điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu huỷ: 9,56 gam Methamphetamine được hoàn lại sau giám định.

Trả lại cho chị Lường Thị S sinh năm 1976. Trú tại thôn H, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

01 chiếc xe môtô biển kiểm soát 27B1-854.87. Màu sơn:Đen - Bạc nhãn hiệu YAMAHA. Số loại xe JUPITER. Số khung: RLCJ5B9508Y036874. Số máy: 5B95- 036874. Xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động của xe.

(Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 22/4/2022).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn O phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/5/2022).

Chị Lường Thị S có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/5/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 141/2022/HS-ST

Số hiệu:141/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về