Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 132/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 132/2022/HSST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xử án A, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và điểm cầu thành phần tại: Nhà Tạm giữ - Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 133/2022/HSST ngày 26 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Ngọc H1 (tên gọi khác: Tý H1), sinh năm 1986, tại: Gia Lai. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 4, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc H2 (đã chết) và bà Phạm Thị H3, sinh năm 1962. Bị cáo có vợ là Võ Thị Vĩnh P, sinh năm 1994 và 03 người con (lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2022).

Tiền sự: Không. Tiền án: 02 lần.

- Tại Bản án số 109/2016/HSST ngày 26/7/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xử phạt 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tại Bản án số 519/2021/HSPT ngày 21/12/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 05 năm tù về tội: “Tổ chức đánh bạc” (Hiện chưa chấp hành bản án này do hoãn chấp hành án phạt tù).

Nhân thân:

- Tại Bản án số: 23/2005/HSST ngày 16/12/2005 của bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù về tội:“Trộm cắp tài sản”.

- Tại Bản án số: 72/2005/HSST ngày 30/12/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum xử phạt 24 tháng tù về tội:“Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/5/2022 đến ngày 19/5/2022, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku.

Có mặt Người hỗ trợ tổ chức phiên tòa tại điểm cầu thành phần:

- Người tiến hành tố tụng:

Ông Thủy Sơn Phương - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Lai.

- Người tham gia tố tụng khác:

Ông Nguyễn Văn Minh, ông Trần Ngọc Lưu và ông Triệu Quang Quân Là Cán bộ, chiến sỹ thuộc Nhà Tạm giữ Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Ngọc H1 là người có sử dụng ma túy (loại Heroine). Thông qua bạn bè ngoài xã hội, H1 biết được số điện thoại của một người thanh niên tên Thường (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 10/5/2022, H1 đi làm bốc xếp tại khu vực đường Phan Đình Phùng, thành phố Pleiku thì nảy sinh mua ma túy về sử dụng. H1 gọi điện thoại cho Thường hỏi mua Heroine với giá 300.000 đồng. Sau đó, H1 đi bộ đến khu vực đường Phùng Khắc Khoan gần ngã ba đường Cao Bá Quát, phường Y, thành phố Pleiku gặp Thường và đã mua được 01 gói ma túy Heroine với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H1 đi đến hẻm gần đó (không rõ địa điểm cụ thể) phân ra thành 02 gói nhỏ để dễ sử dụng, rồi cất 02 gói ma túy này vào trong túi quần. Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi H1 đang đi bộ trước số nhà 202 đường C, Tổ 09, phường Y, thành phố Pleiku thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku phối hợp với Công an phường Y bắt quả tang; thu giữ vật chứng, gồm: 02 gói giấy bên trong chứa chất dạng cục, bột màu trắng (đã niêm phong theo quy định); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc, kèm thẻ sim (mặt sau có dãy số 8984 04800 00536 58003) đã qua sử dụng và số tiền 350.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Ti Kết luận giám định số 303/KLGĐ ngày 17/5/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Chất màu trắng dạng cục, bột trong 02 gói giấy trong bì thư niêm phong, gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,2027 gam”..

Cơ quan điều tra chuyển chất ma túy loại Heroine còn lại sau giám định đựng trong bì công văn ghi số 303/PC09 ngày 17/5/2022, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, các vật chứng đã thu giữ và số tiền 350.000 đồng theo hồ sơ vụ án để xử lý.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung nêu trên.

Bản cáo trạng số: 147/CT-VKS ngày 24/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Ngọc H1, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Ngọc H1 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Đề nghị xử phạt bị cáo Võ Ngọc H1 mức án từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 10/5/2022; hình phạt bổ sung: Không.

- Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy còn lại sau giám định;

Tịch thu chiếc điện thoại di động Iphone màu bạc của Võ Ngọc H1 sung vào ngân sách nhà nước.

Trả lại cho bị cáo H1 số tiền 350.000 đồng.

- Bị cáo Võ Ngọc H1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Võ Ngọc H1 không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa.

Bị cáo Võ Ngọc H1 nói lời nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thấy hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người chứng kiến không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Võ Ngọc H1 tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai của bị cáo có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với các tài liệu: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ khẳng định bị cáo đã thực hiện hành vi như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 10/5/2022, tại đường trước số nhà 202 đường C, Tổ 09, phường Y, thành phố P, khi Võ Ngọc H1 đang tàng trữ 0,2027 gam chất ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Pleiku phát hiện bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng.

Bị cáo Võ Ngọc H1 hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã cố ý mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Võ Ngọc H1 đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại Bản án phúc thẩm số: 519/2021/HSPT ngày 21/12/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xác định bị cáo Võ Ngọc H1 đã “Tái phạm”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku truy tố bị cáo Võ Ngọc H1 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” đã được xác định tình tiết định khung tăng nặng nên bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo Võ Ngọc H1 có nhân thân xấu, thể hiện: bị cáo có 02 tiền án và 02 lần bị xử lý hình sự. Hiện bị cáo đang được hoãn chấp hành hình phạt 05 năm tù của Bản án phúc thẩm số: 519/2021/HSPT ngày 21/12/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để giúp bị cáo tự cải tạo và răn đe, phòng ngừa tội phạm cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Hiện bị cáo không có thu nhập và phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo chưa chấp hành hình phạt của Bản án phúc thẩm số: 519/2021/HSPT ngày 21/12/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự thì thẩm quyền tổng hợp hình phạt thuộc Chánh án Tòa nên Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt của bản án chưa chấp hành.

[6] Xử lý vật chứng:

Đi với ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc điện thoại di động Iphone màu bạc được bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc để trao đổi mua ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đi với số tiền 350.000 đồng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo số tiền này.

[7] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không xác định được đối tượng tên Thường là người đã bán ma túy cho bị cáo là ai nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí:

Bị cáo Võ Ngọc H1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Ngọc H1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Căn cứ điểm o Khoản 2 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 10/5/2022.

2. Căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Tch thu tiêu hủy ma túy loại Heroine còn lại sau giám định đựng trong 01 bì công văn ghi số 303/PC09 ngày 17/5/2022, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Tịch thu chiếc điện thoại di động Iphone màu bạc, kèm sim số của Võ Ngọc H1 sung vào ngân sách nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Võ Ngọc H1 số tiền 350.000 đồng.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/8/2022, giữa:

Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku) 3. Căn cứ Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Võ Ngọc H1 phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 132/2022/HSST

Số hiệu:132/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về