Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 114/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh H1, sinh năm 1978, tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, thị xã H, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N1 (chết) và bà Lê Thị T1 (chết); vợ Trần Thị Thu H2, sinh năm 1981; bị cáo có 02 con (sinh năm 2008 và năm 2010); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tạm giam từ ngày 13/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Thái H3, Luật sư Văn phòng Luật sư Phạm Thái H3 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Võ Ngọc H4, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn T2, xã V, thị xã H, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. Bà Trần Thị Thu H2, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, thị xã H, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. NLC1, sinh năm 1998; nơi cư trú: TDP số 0X, thị trấn V1, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. NLC2, sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn Pb, xã V3, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

3. NLC3, sinh năm 1978; nơi cư trú: TDP số 0X, thị trấn V1, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

4. NLC4, sinh năm 1975; nơi cư trú: Tổ X, thị trấn V1, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 45 phút ngày 11/01/2021, tại khu vực Bến xe buýt T thuộc tổ dân phố số X, thị trấn V1, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Công an huyện V2 phát hiện Trần Thanh H1 đang ôm 01 thùng xốp màu trắng bên ngoài dán băng keo màu vàng, kích thước (39 x 29 x 33) cm, trên nắp có ghi chữ “096W9743 – T5 nhận – M2” có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu kiểm tra và phát hiện thu giữ bên trong thùng xốp có 49,8360 gam Methamphetamine. Trần Thanh H1 được đưa về Cơ quan Cảnh sát điều Công an huyện V2 làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trần Thanh H1 khai nhận:

Khoảng cuối năm 2020, H1 quen biết và nhiều lần sử dụng chung ma túy (thuốc lắc – Methamphetamine và khay - Ketamine) với người phụ nữ tên Nguyễn Thị T M2 (tên gọi khác là L2, sinh năm 1991, trú tại thôn XX, xã Ix, huyện E, tỉnh Đắk Lắk). Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, M2 dùng số điện thoại 0847101191 gọi cho H1 theo số 098X1617 nhờ đến bến xe buýt T thuộc tổ dân phố số X, thị trấn V1, huyện V2 nhận một thùng hàng đựng ma túy rồi mang đến khu vực cầu D, phường H4, thị xã H giao cho người có số điện thoại ghi trên thùng hàng, H1 đồng ý. Đồng thời, H1 hỏi mua ma túy thuốc lắc và khay, M2 đồng ý bán với số lượng ma túy trị giá 20.000.000 đồng và sẽ gửi qua dịch vụ gửi hàng xe buýt T tuyến Nha Trang – V2. Đến khoảng 14 giờ 00 cùng ngày, H1 đi từ nhà tại thôn Đ, xã S, thị xã H đến bến xe buýt T, thị trấn V1, huyện V2 để nhận ma túy giúp M2. Khi đi đến khu vực D1, xã H5, huyện V2, H1 nhận được điện thoại của nhân viên Bến xe buýt T báo đến nhận thùng hàng được gửi từ Nha Trang ra V2 có số điện thoại người nhận là 098X1617 (là số điện thoại H1 đang sử dụng). Đến khoảng 14 giờ 45 phút ngày 11/01/2021, khi H1 vừa nhận thùng hàng đựng ma túy của M2 đi ra khỏi kho hàng của Bến xe buýt T thì bị Cơ quan Công an phát hiện thu giữ như trên. Tại cơ quan Công an, H1 khai nhận ngoài thùng hàng chứa ma túy bị thu giữ nêu trên, thì hiện H1 còn 01 thùng hàng đựng ma túy khác đang để tại Bến xe buýt T, đây là số ma túy H1 mua của M2 để sử dụng.

Căn cứ lời khai của Trần Thanh H1, đến khoảng 18 giờ 00 ngày 12/01/2021, tại kho hàng của Bến xe buýt T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V2 tiếp tục thu giữ 01 thùng xốp bên ngoài dán băng keo màu vàng, kích thước (31 x 22 x 24)cm, trên nắp có ghi “098X1617 nhận H - G4634259 người gửi H1” bên trong đựng 36,4781 gam MDMA và 19,6550 gam Ketamine.

Ngày 15/01/2021 và ngày 18/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa có kết luận giám định số 83/GĐTP/2021 và số 86/GĐTP/2021 đối với các mẫu vật thu giữ gửi giám định.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đang tạm giữ một số đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 83/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh T, Nguyễn Hương T.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 86/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A1, A2, mặt sau có chữ ký niêm phong của thượng tá Nguyễn Khắc H, Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Hương T và hình dấu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

- 01 (một) điện thoại di động OPPO – F1S màu hồng, số hiệu A1601; IMEI 1: 863807039389015; IMEI 2: 863897039389007 sử dụng số thuê bao 09X06597; điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) điện thoại di động OPPO – Reno 4 kiểu máy CPH 2113; IMEI 1: 860577045242597; IMEI 2: 860577045242589 sử dụng sim 1 số điện thoại: 098X1617; sim 2 số điện thoại: 0774Y124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1–Z.78. Xe máy đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) túi nylon màu trắng trong, loại khoằn mép, kích thước (12 x 8)cm; 02 (hai) viên gạch loại 4 lỗ, kích thước (18 x 8 x 8)cm;

- 01 (một) phiếu gửi hàng của công ty TNHH T, Nha Trang. Nội dung “số vé 20765110121 – 07 BSX 79B – 02640 tên số điện thoại gửi để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000đ, ngày 12:52:53, 11/01/2021”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (39 x 29 x 33)cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ màu xanh, hàng đầu tiên ghi: “096W9743”, hàng thứ hai ghi “ T5 nhận”, hàng thứ ba ghi: “M2”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (31 x 22 x 24)cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ Phiếu gởi hàng của Công ty TNHH T, Nha Trang, nội dung: “số vé 207675110121- 07BSX79B- 02640, tên và số điện thoại để trống, trạm gửi: trạm đăng kiểm, tên số điện thoại để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000 đồng, ngày 12:52:53, 11/01/2021”.

Tại bản Cáo trạng số: 84/CT-VKSKH-P1 ngày 06/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Trần Thanh H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Tại phiên toà sơ thẩm:

- Bị cáo Trần Thanh H1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như Cáo trạng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thanh H1 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại và điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Thanh H1 với mức án từ 11 đến 13 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 16 đến 17 năm tù về “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 83/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh T, Nguyễn Hương T.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 86/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A1, A2, mặt sau có chữ ký niêm phong của thượng tá Nguyễn Khắc H, Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Hương T và hình dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

- 01 (một) túi nylon màu trắng trong, loại khoằn mép, kích thước (12x8) cm; 02 (hai) viên gạch loại 4 lỗ, kích thước (18x8x8) cm;

- 01 (một) phiếu gửi hàng của công ty TNHH T, Nha Trang. Nội dung “số vé 20765110121 – 07 BSX 79B – 02640 tên số điện thoại gửi để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000đ, ngày 12:52:53, 11/01/2021”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (39x29x33) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ màu xanh, hàng đầu tiên ghi: “096W9743”, hàng thứ hai ghi “T5 nhận”, hàng thứ ba ghi: “M2”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (31x22x24) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ Phiếu gởi hàng của Công ty TNHH T, Nha Trang, nội dung: “số vé 207675110121- 07BSX79B- 02640, tên và số điện thoại để trống, trạm gửi: trạm đăng kiểm, tên số điện thoại để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000 đồng, ngày 12:52:53, 11/01/2021”.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động OPPO – Reno 4 kiểu máy CPH 2113; IMEI 1:

860577045242597; IMEI 2: 860577045242589 sử dụng sim 1 số điện thoại:

098X1617; sim 2 số điện thoại: 0774Y124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1 – Z.78. Xe máy đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động OPPO – F1S màu hồng, số hiệu A1601; IMEI 1: 863807039389015; IMEI 2: 863897039389007 sử dụng số thuê bao 09X06597; điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị tách phần yêu cầu bồi thường thành vụ, việc dân sự khác nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với đại diện Viện kiểm sát về việc kết tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo H1. Tuy nhiên, bị cáo H1 không phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249, vì: Bị cáo mua ma túy của M2 với giá 20.000.000 đồng nhưng chưa chuyển tiền và không biết M2 có chuyển ma túy cho bị cáo hay không; ngày 11/01/2021, bị cáo bị bắt, ngày 12/01/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V2 thu giữ ma túy tại Bến xe buýt T, như vậy, bị cáo không thể biết ma túy do M2 chuyển cho bị cáo nên không thể phạm tội.

Bị cáo Trần Thanh H1 phạm tội lần đầu, ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quyết định cho bị cáo Trần Thanh H1 mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, sớm trở về lao động giúp đỡ gia đình và trở thành một công dân có ích cho xã hội. Đối xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát:

79H1 – Z.78 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo trong thời kỳ hôn nhân, bị cáo mua xe trả góp hiện còn nợ 20.000.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho vợ bị cáo là chị Trần Thị Thu H2.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Trần Thanh H1 nhận thấy sai lầm, hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở thành công dân có ích cho xã hội và đề nghị trả lại cho bị cáo xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1 – Z.78 vì đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo trong thời kỳ hôn nhân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại hồ sơ và không ảnh đến việc xét xử. Căn cứ vào Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và hành vi của người bào chữa. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, hành vi của người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật [3] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh H1 thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung Cáo trạng nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo Trần Thanh H1 phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Về ý kiến của người bào chữa cho rằng: bị cáo H1 không phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xét tại các bản tự khai trong giai đoạn đều tra bị cáo H1 Khai nhận: Ngoài số ma túy bị cáo nhận vận chuyển giúp M2 và bị bắt quả tang, bị cáo còn mua ma túy của M2 với giá 20.000.000 đồng và hiện đang ở tại kho hành Bến xe buýt T (bút lục số 117 đến 127), lời khai nhận của bị cáo phù hợp với cáo lời khai tại các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, cũng trên cơ sở lời khai của bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V2 đã thu giữ lượng ma túy mà bị cáo mua để sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, do có quan hệ quen biết với Nguyễn Thị T M2 nên M2 gọi điện thoại nhờ Hùng vận chuyển ma túy giúp từ huyện V2 về thị xã H, H1 đồng ý. Đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, tại khu vực Bến xe buýt T, Tổ dân phố số 01 thị trấn V1, huyện V2, tỉnh Khánh Hòa, Trần Thanh H1 sau khi nhận 01 thùng xốp bên trong có chứa 49,8360g Methamphetamine để vận chuyển đi thị xã H thì bị Tổ công tác Đội phòng chống tội phạm ma túy Công an huyện V2 phát hiện bắt giữ. Đến khoảng 18 giờ ngày 12/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V2 tiếp tục thu giữ tại kho hàng thuộc Bến xe buýt T 01 thùng xốp trong chứa 36,4781 gam MDMA và 19,6550 gam Ketamine - đây là số ma túy mà Trần Thanh H1 mua của Nguyễn Thị T M2 để sử dụng. Hành vi của bị cáo Trần Thanh H1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo Trần Thanh H1 là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm xói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội và là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

[5] Xét nhân thân của bị cáo Trần Thanh H1 không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Vì vậy, áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Trần Thanh H1 không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

* Các vật chứng sau:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 83/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh T, Nguyễn Hương T.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 86/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A1, A2, mặt sau có chữ ký niêm phong của thượng tá Nguyễn Khắc H, Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Hương T và hình dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

- 01 (một) túi nylon màu trắng trong, loại khoằn mép, kích thước (12x8) cm; 02 (hai) viên gạch loại 4 lỗ, kích thước (18x8x8) cm;

- 01 (một) phiếu gửi hàng của công ty TNHH T, Nha Trang. Nội dung “số vé 20765110121 – 07 BSX 79B – 02640 tên số điện thoại gửi để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000đ, ngày 12:52:53, 11/01/2021”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (39x29x33) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ màu xanh, hàng đầu tiên ghi: “096W9743”, hàng thứ hai ghi “T5 nhận”, hàng thứ ba ghi: “M2”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (31x22x24) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ Phiếu gởi hàng của Công ty TNHH T, Nha Trang, nội dung: “số vé 207675110121- 07BSX79B- 02640, tên và số điện thoại để trống, trạm gửi: trạm đăng kiểm, tên số điện thoại để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000 đồng, ngày 12:52:53, 11/01/2021”.

Không giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

* Các vật chứng sau:

- 01 (một) điện thoại di động OPPO – Reno 4 kiểu máy CPH 2113; IMEI 1: 860577045242597; IMEI 2: 860577045242589 sử dụng sim 1 số điện thoại: 098X1617; sim 2 số điện thoại: 0774Y124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1 – Z.78. Xe máy đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

Là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, có giá trị sử dụng nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

* 01 (một) điện thoại di động OPPO – F1S màu hồng, số hiệu A1601; IMEI 1: 863807039389015; IMEI 2: 863897039389007 sử dụng số thuê bao 09X06597; điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong là tài sản của bị cáo H1, không sử dụng vào hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo H1.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/11/2021 giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa với Cục thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa).

[8] Trách nhiệm dân sự: Xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát:

79H1 – Z.78 là phương tiện bị cáo H1 dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước, nếu có tranh chấp về giá trị thì xem xét giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu.

[9] Đối với người phụ nữ tên Nguyễn Thị T M2: Qua xác minh, Công an xã Ix, huyện E, tỉnh Đắk Lắk xác định Nguyễn Thị T M2 có đăng ký hộ khẩu nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã ra Thông báo truy tìm đối với Nguyễn Thị T M2 và tiếp tục điều tra xác minh, khi đủ cơ sở sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với số điện thoại 096W9743 ghi trên thùng hàng đựng ma tuý mà H1 đi nhận giúp M2. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội xác định chủ thuê bao số điện thoại trên là Trần Văn Duy (sinh ngày 24/11/1997 - CMND số 225762333 do Công an tỉnh Khánh Hoà cập ngày 15/02/2020 - Trú tại: xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, Khánh Hoà). Công an xã Suối Cát, Cam Lâm xác định Trần Văn Duy có đăng ký hộ khẩu tại địa phương nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa tiếp tục điều tra xác minh, khi đủ cơ sở sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với số điện thoại G4634259 ghi trên thùng hàng đựng ma tuý mà M2 gửi cho H1. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội xác định chủ thuê bao số điện thoại trên là Võ Ngọc H4 (sinh ngày 24/8/1996 - CMND số 225666732, do Công an tỉnh Khánh Hoà cấp ngày 17/9/2016 - Trú tại: Thôn T2, xã V, thị xã Ninh Hoà, Khánh Hoà). Qua làm việc, Võ Ngọc H4 khai nhận: Khoảng năm 2015, Hải có sử dụng số điện thoại G4634259. Sau đó, Hải sử dụng chứng minh nhân dân của mình để đăng ký chủ thuê bao của số điện thoại trên. Đến khoảng tháng 11/2020, Hải đã thế chấp điện thoại, kèm số điện thoại G4634259 cho một tiệm cầm đồ tại khu vực dốc gần trường Đại học Nha Trang (không xác định được) và không còn sử dụng số điện thoại này. Đồng thời, Võ Ngọc H4 khai nhận không quen biết với Trần Thanh H1, Nguyễn Thị T M2 và cũng không biết gì về việc mua bán ma túy giữa H1 với M2. Với những tài liệu đã thu thập được chưa đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Võ Ngọc H4, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa tiếp tục điều tra, xác minh, khi đủ cơ sở sẽ đề nghị xử lý sau, [9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa, ý kiến nào phù hợp với nhận định trên thì được Hội đồng xét xử chấp nhận; ý kiến nào không phù hợp thì không được chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo Trần Thanh H1 bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 249, điểm b khoản 3 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Trần Thanh H1 11 (mười một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 16 (mười sáu) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 27 (hai mươi bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 13/01/2021.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 83/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Ngọc Thanh T, Nguyễn Hương T.

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi vụ 86/GĐTP/2021, Mẫu vật còn lại sau giám định có ký hiệu A1, A2, mặt sau có chữ ký niêm phong của thượng tá Nguyễn Khắc H, Nguyễn Hoàng Quang A, Nguyễn Hương T và hình dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

- 01 (một) túi nylon màu trắng trong, loại khoằn mép, kích thước (12x8) cm; 02 (hai) viên gạch loại 4 lỗ, kích thước (18x8x8) cm;

- 01 (một) phiếu gửi hàng của công ty TNHH T, Nha Trang. Nội dung “số vé 20765110121 – 07 BSX 79B – 02640 tên số điện thoại gửi để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000đ, ngày 12:52:53, 11/01/2021”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (39x29x33) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ màu xanh, hàng đầu tiên ghi: “096W9743”, hàng thứ hai ghi “T5 nhận”, hàng thứ ba ghi:” M2”;

- 01 (một) thùng xốp trắng dán băng keo vàng, có kích thước (31x22x24) cm, trên nắp thùng xốp có ghi chữ Phiếu gởi hàng của Công ty TNHH T, Nha Trang, nội dung: “số vé 207675110121- 07BSX79B- 02640, tên và số điện thoại để trống, trạm gửi: trạm đăng kiểm, tên số điện thoại để trống, trạm nhận để trống, phí gửi 20.000 đồng, ngày 12:52:53, 11/01/2021”.

2.2. Tịch thu xung công quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động OPPO – Reno 4 kiểu máy CPH 2113; IMEI 1: 860577045242597; IMEI 2: 860577045242589 sử dụng sim 1 số điện thoại: 098X1617; sim 2 số điện thoại: 0774Y124, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1 – Z.78. Xe máy đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

2.3. Trả lại cho bị cáo Trần Thanh H1 01 (một) điện thoại di động OPPO – F1S màu hồng, số hiệu A1601; IMEI 1: 863807039389015; IMEI 2: 863897039389007 sử dụng số thuê bao 09X06597; điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong;

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa với Cục thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa).

3. Về trách nhiệm dân sự: Tách phần tranh chấp giá trị xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại: SH150, màu sơn đỏ - đen; Số máy: KF 25E0060142; Số khung: 2501KY005059; Biển kiểm soát: 79H1 – Z.78 bằng vụ, việc dân sự khác nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu.

4. Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Thanh H1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về