Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2022/TLST- HS, ngày 26 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12 /2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Đinh Hồng Q (tên gọi khác không), sinh ngày 29 tháng 7 năm 1998, tại: xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn NL, xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Khánh D và Chung Thị V1; Vợ, con: chưa có; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị áp dụng biên pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2022 đến nay (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đỗ Thị X- Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Trung H, sinh năm 1996; trú tại: thôn X, xã S, huyện N, tỉnh Bắc Kạn ( vắng mặt) - Người làm chứng:

+ Anh Hoàng Ngọc T, sinh năm 1996; trú tại: thôn Bu, xã S, huyện N, tỉnh Bắc Kạn ( vắng mặt)

+ Anh Triệu Văn Đ, sinh năm 1998; trú tại: thôn N1, xã T, huyện Tr, tỉnh Lạng Sơn (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Buổi sáng ngày 05/03/2022 tổ công tác về tội phạm ma túy thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N phối hợp với Công an thị trấn Y, huyện N tuần tra kiểm soát tình hình an ninh trật tự tại khu vực thuộc tổ nhân dân P , thị trấn Y, huyện N, thì phát hiện 03 nam thanh niên cùng ngồi trên 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, BKS 97B2-xxx38, đang di chuyển đi theo hướng từ thị trấn Y đi xã S, huyện N có biểu hiện nghi vấn đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Nên tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xác định các đối tượng có lai lịch như sau: Đinh Hồng Q, sinh năm 1998, trú tại thôn NL, xã V, huyện N; Hoàng Ngọc T, sinh năm 1996, trú tại thôn B, xã S, huyện N, tỉnh Bắc Kạn và Triệu Văn Đ, sinh năm 1998, trú tại thôn N1, xã T, huyện Tr, tỉnh Lạng Sơn. Tại thời điểm phát hiện và yêu cầu kiểm tra thì T là người điều khiển xe mô tô, Q là người ngồi giữa còn Đ là người ngồi sau cùng. Khi bị kiểm tra thì Q, T, Đ trình bày là người nghiện ma túy; Q khai nhận thêm Q đang tàng trữ trái phép chất ma túy trên người và đang cất ma túy trong túi quần bên phải đang mặc trên người của Q và Q tự nguyện giao nộp số ma túy này cho tổ công tác, đồng thời tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 11 giờ 35 phút ngày 05/03/2022, quá trình lập biên bản kiểm tra 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long phát hiện bên trong có 01 túi (dạng túi đựng bơm kim tiêm), bên trong có 08 gói nhỏ bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong 08 gói nhỏ này có chứa chất bột màu trắng. Nghi là ma túy, nên tổ công tác trích một lượng nhỏ chất bột màu trắng thử với thuốc thử Heroine do Bộ Công an cấp, kết quả thuốc thử chuyển màu tím, trùng với màu nhận biết Heroine nên tổ công tác gói lại như tình trạng ban đầu và niêm phong trong phong bì ký hiệu A1. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, BKS 97B2-xxx38, đồng thời tổ công tác tiến hành lập biên bản xét nghiệm nhanh ma túy đối với Q, T, Đ kết quả dương tính Q, T, Đ có sử dụng ma túy.

Hồi 13 giờ 15 phút ngày 05/03/2022 tại trụ sở Công an huyện N cùng có mặt Đinh Hồng Q, đã tiến hành cân xác định trọng lượng chất bột màu trắng, thu giữ trên người Q. Kết quả số chất bột màu trắng có tổng khối lượng là 0,343g.

Sau khi cân xác định khối lượng CQCSĐT công an huyện N đã tiến hành niêm phong số chất bột màu trắng này và được niêm phong trong phong bì ký hiệu B1 để làm thủ tục gửi giám định (quyết định trưng cầu giám định số 13 ngày 07/03/2022).

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 05/03/2022, CQCSĐT Công an huyện N tiến hành thi hành lệnh khám xét khẩn cấp số: 02 ngày 05/03/2022 đối với nơi ở, công trình phụ cận của Đinh Hồng Q. Qua khám xét không phát hiện, tạm giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến hành vi phạm tội của Q.

Tại Bản kết luận giám định số 13/KTHS-MT ngày 10/03/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,343g, sau giám định còn 0,318g. Sau khi giám định mẫu chất gửi giám định cùng phong bì bao gói cũ được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T58 hoàn trả lại cho Cơ quan trưng cầu.

Tại Cơ quan điều tra, Đinh Hồng Q khai nhận:Vào tối ngày 04/03/2022 Q ngủ ở nhà một người tên B ở thị trấn Y, huyện N đến sáng hôm sau khoảng 09 giờ sáng ngày 05/03/2022, Q đi bộ ra khu vực bến xe khách huyện N, tìm mua ma túy về sử dụng thì gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, Q không quen biết, không rõ họ, tên, địa chỉ và mua với người đàn ông này 01 gói nhỏ ma túy với giá 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng). Mua ma túy xong Q cất ma túy trên người và đi ra khu vực chợ đầu mối nông lâm sản huyện N thì gặp T và Đ (vì giữa Q và T, Đ quen biết nhau), lúc này T có xe mô tô, nên Q nhờ T đưa Q về, T đồng ý rồi điều khiển trở theo Q, Đ đi đến tổ nhân dân P, thị trấn Y, huyện N thì bị Công an huyện N yêu cầu dừng xe và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Khi Q đi nhờ xe T thì T và Đ không biết Q có ma Túy trên người và Q cũng không nói cho T, Đ biết. Mục đích Q mua ma Túy về là để sử dụng cho bản thân Q, chứ không nhằm mục đích bán.

Quá trình điều tra Q thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và ăn năn hối cải.

Vật chứng và đồ vật thu giữ, tạm giữ trong vụ án:

- 0,343g ma Túy, loại Heroine, sau giám định còn 0,318g được niêm phong trong phong bì ký hiệu T58, một mặt phong bì ghi: Vụ, Đinh Hồng Q (1998) tàng trữ trái phép chất ma Túy, bên trong có 0,318g ma Túy cùng bao gõi cũ.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2, bên ngoài ghi: Vật chứng còn lại vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 05/03/2022, bên trong phong bì có 01 Ti nilon, 08 mảnh giấy có kích thước khác nhau, 01 phong bì ký hiệu A1 đã mở niêm phong.

(Các vật chứng hiện đang được bảo quản theo quy định của pháp luật).

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, BKS 97B2- xxx38, ngày 25/03/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Tại bản cáo trạng số: 11/CT-VKS-NR ngày 25/4/2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn, truy tố Đinh Hồng Q về: "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện Kiểm sát đã truy tố.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Trung H có đơn xin xét xử vắng mặt và nêu ý kiến: Chiếc xe bị thu giữ trong vụ án là của anh H, xe anh H đã được nhận lại và không có yêu cầu gì thêm;

Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng. Đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Đinh Hồng Q phạm "Tội tàng trữ trái phép chất ma Túy"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38/BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù giam. Hình phạt bổ sung không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

* Tịch thu, tiêu hủy:

- 02 phong bì dán kín niêm phong trong đó: 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2; 01 phong bì niêm phong ký hiệu T58. Miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo, bà Đỗ Thị X trình bày quan điểm bào chữa: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt. Đề nghị HĐXX cân nhắc, xem xét hành vi của bị cáo, xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm đối với bị cáo như: bị cáo thành khẩn ăn năn hối cải, bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 14 tháng tù, hình phạt bổ sung không áp dụng do bị cáo nghiện ma túy, không có công ăn việc làm và đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo theo quy định.

Bị cáo Đinh Hồng Q nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Việc xét xử vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng. Tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến gì đồng ý tiếp tục phiên tòa. Kiểm sát viên nêu quan điểm, việc vắng mặt của những người trên không ảnh hưởng việc xét xử, vì họ đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị tiếp tục phiên tòa.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại tòa, cụ thể:

Hồi 11 giờ 35 phút ngày 05/03/2022, tại tổ nhân dân P, thị trấn Y, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, Đinh Hồng Q, sinh năm 1998, trú tại thôn NL, xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn đã có hành vi tàng trữ 0,343g ma Túy, loại Heroine. Mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân.

Hành vi nêu trên của Đinh Hồng Q đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự trị an ở địa phương và phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Q đã đủ yếu tố cấu thành "Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều luật có nội dung:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma Túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ….., b) ….., c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

………………… [3] Nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

-Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015;

nặng.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng [ 4] Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật. Mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù giam là nằm trong khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố và phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[ 5] Đánh giá về quan điểm bào chữa của người bào chữa: Quan điểm của người bào chữa về việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, lý do bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế và đề nghị hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ, tuy nhiên mức hình phạt mà người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo từ 12 đến 14 tháng tù là thấp, chưa thực sự phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. HĐXX thấy rằng cần áp dụng một mức hình phạt cao hơn so với đề nghị của người bào chữa.

[6] Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu lao động rèn luyện bản thân, mà lại đua đòi, chơi bời dẫn đến nghiện chất ma Túy mà phạm tội. Do vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện chất ma túy không có công việc ổn định, nên không áp dụng đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với: 02 phong bì dán kín niêm phong trong đó: 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2; 01 phong bì niêm phong ký hiệu T58 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với người đã bán ma túy loại Heroine cho Q vào ngày 05/03/2022 ở khu vực cổng chợ đầu mối nông lâm sản huyện N, tỉnh Bắc Kạn, do Q không quen biết và cũng không biết họ tên, địa chỉ người này, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra làm rõ.

Đối với Triệu Văn Đ và Hoàng Ngọc T là người điều khiển xe mô tô đưa Q về nhà tuy nhiên khi T đưa Q về Q không nói cho T và Đ biết việc Q đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt khác T và Đ không biết việc Q có ma túy trên người, do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N không xem xét xử lý hình sự đối với T và Đ đúng quy định [9 ] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và có đơn đề nghị miễn án phí, cần miễn án phí cho bị cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Đinh Hồng Q phạm: "Tội tàng trữ trái phép chất ma Túy".

[2] Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt Đinh Hồng Q 15 tháng tù về "Tội tàng trữ trái phép chất ma Túy". Thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2022 Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi năm) ngày để đảm bảo thi hành án.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

* Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 phong bì đã được niêm phong, ký hiệu T58, một mặt phong bì có dòng chữ " Vụ: Đinh Hồng Q(1998) tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên trong có 0,318g (không phảy ba một tám gam ma túy cùng phong bì bao gói cũ niêm phong).

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2, bên ngoài ghi " Vật chứng còn lại vụ tàng trữ trái phép chất ma Túy xảy ra ngày 05/3/2022". Bên trong phong bì niêm phong có 01 túi nilon, dạng túi nilon đựng bơm kim tiêm; 08 mảnh giấy màu trắng có kích thước khác nhau; 01 phong bì kí hiệu A1 đã mở niêm phong.

(Hiện trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện N ngày 28 tháng 4 năm 2022)

[4 ] Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo

[5]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngân Sơn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về