TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Trần Ngọc P, sinh năm 1988 tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: đường Lê Thánh T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc V, sinh năm 1963 và bà Trần Thị Minh H, sinh năm 1968; vợ Lý Thị Ngọc H, sinh năm 1988; bị cáo có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 26/7/2018 bị Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Bản án số 127/2018/HS-ST.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 cho đến nay, có mặt.
- Người chứng kiến:
+ Ông Châu Thanh T1, sinh năm 1996, vắng mặt.
+ Ông Trần Gia T2, sinh năm 1963, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T2 liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 17/12/2021, Trần Ngọc P có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên đi đến khu vực gần cây xăng Cửu Long thuộc khu công nghiệp S, thành phố D, tỉnh Bình Dương gặp và mua của 01 người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch 1.200.000 đồng được 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 05 đoạn ống hút nhựa hàn kín và 03 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể màu trắng để về sử dụng. Ma túy mua được P cất vào túi áo khoác bên ngực trái mặc trên người.
Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Trần Ngọc P mang theo số ma túy và rủ bạn Châu Thanh T1 đi bộ tại khu dân cư thương mại S, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Khi cả hai đang đi bộ đến ngã tư đường D giao với đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phường D kết hợp cùng Đội cảnh sát điều tra Kinh tế - Ma túy công an thành phố D đi tuần tra kiểm soát, phát hiện Trần Ngọc P có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, cơ quan Công an phát hiện trong túi áo phía trước bên ngực trái của P đang mặc có 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 05 đoạn ống hút nhựa hàn kín và 03 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể màu trắng. P thừa nhận đây là ma túy đá của P để sử dụng cho bản thân nên Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng để xử lý theo quy định. Đối với Châu Thanh T1 không biết P có tàng trữ ma túy trong người nên cơ quan Công an không tiến hành xử lý.
* Vật chứng thu giữ: 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 05 đoạn ống hút nhựa hàn kín và 03 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể màu trắng.
* Căn cứ Kết luận giám định số 05/MT-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng: 1,0159 gam (M1); 0,9812 gam (M2), loại Methamphetamine. Tổng khối lượng 1,9971 gam.
Ngày 25/12/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với Trần Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho P hiện không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.
* Về xử lý vật chứng: Đối với khối lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định đã được niêm phong trong bì thư số 05/PC09 gồm: M1 = 0,9800 gam; M2 = 0,9451 gam cần tịch thu tiêu hủy.
Tại Cáo trạng số: 107/CT-VKS ngày 28 tháng 3 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc P với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: khối lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định đã được niêm phong trong bì thư số 05/PC09 gồm: M1 = 0,9800 gam; M2 = 0,9451 gam.
Bị cáo không tranh luận, trong lời nói sau cùng, bị cáo Trần Ngọc P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T2 liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc P đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với những T2 liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 17/12/2021, tại ngã tư đường D giao với đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Ngọc P đã thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có tổng trọng lượng 1,9971 gam, loại Methamphetamine thì bị lực lượng Công an phường D phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy có khối lượng 1,9971 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích tàng trữ để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước. Về nhận thức, bị cáo biết ma túy (Methamphetamine) là loại chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng sau khi chấp hành xong bị cáo lại tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật. Vì vậy, để có tác dụng tuyên truyền, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[6] Về nhân thân: Ngày 26/7/2018 bị cáo bị Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Bản án số 127/2018/HS-ST.
[7] Xử lý vật chứng: Đối với khối lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định đã được niêm phong trong Bì thư số 05/PC09 gồm: M1 = 0,9800 gam; M2 = 0,9451 gam. Xét thấy, đây là vật cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt cao hơn đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.
[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 298, 299, 326, 327, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc P 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong, ký hiệu 05/PC09, bên trong chứa M1 = 0,9800 gam; M2 = 0,9451 gam ma túy còn lại sau giám định loại Methamphetamine.
(Theo Biên bản giao, nhận đồ vật, T2 liệu, vật chứng ngày 28/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D)
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Trần Ngọc P phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2022/HS-ST
Số hiệu: | 128/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về