Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 112/2022/HSST NGÀY 07/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai thụ lý số 90/2022/TLST-HS ngày 21/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2022/QĐXXST-HS ngày 21/6/2022 đối với bị cáo:

PHẠM THANH N; Sinh năm: 1995; ĐKHKTT: xã N, huyện N, tỉnh N; Nơi ở: không cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn S và bà: Bùi Thị Th; Tiền sự: không; Tiền án: không; Bị cáo bị bắt ngày: 24/12/2021. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoàng 12 giờ 30 ngày 24/12/2021, Phạm Thanh N đi bộ từ công trường xây dựng trên phố P1 đến khu vực P để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến đầu ngõ 117 A gặp và hỏi mua của người đàn ông không quen biết 01 gói heroin quấn nilon màu trắng với giá 100.000 đồng. Mua xong N cầm gói heroin trong lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi Nghị đi đến đầu ngõ 117 A thì bị tổ công tác Công an phường P phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng Vật chứng thu giữ của Phạm Thanh N gồm:

- 01 gói nilong màu trắng kích thước 0,5x1cm bên trong là ma túy loại heroin, khối lượng 0,236 gam.

Ti Bản kết luận giám định số 9310/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 01 gói nilong màu trắng kích thước 0,5x1cm bên trong là ma túy loại heroin, khối lượng 0,236 gam.

Đi với đối tượng bán ma túy cho Phạm Thanh N, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Bản cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 14/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố bị cáo Phạm Thanh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội và khai: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/12/2021, tại đầu ngõ 117 A, phường P, quận B, thành phố H, Phạm Thanh N đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy loại heroin, khối lượng 0,236 gam, để sử dụng, đã bị tổ công tác Công an phường P, quận B, thành phố H phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo Phạm Thanh N đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Thanh N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249, điều 38, điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Đề nghị xử phạt từ 14 tháng đến 20 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,236 gam heroin.

Ti phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa , qua xét hỏi Phạm Thanh N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là thống nhất với với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, tang vật thu giữ trong vụ án, kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, cùng các tài liệu có trong hồ sơ. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/12/2021, tại đầu ngõ 117 A, phường P, quận B, thành phố H, Phạm Thanh N đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói heroin khối lượng: 0,236 gam để sử dụng, bị tổ công tác Công an phường P, quận B, thành phố H phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi trên đây của Phạm Thanh N phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, nó hủy hoại sức khỏe của con người, là nguồn gốc phát sinh ra nhiểu loại tội phạm khác trong xã hội, làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình có người thân mắc nghiện. Vì những tác hại của ma túy nên Đảng và Nhà nước ta cũng như các Quốc gia khác trên thế giới đều kiên quyết bài trừ ra khỏi đời sống xã hội, pháp luật xử lý rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Bản thân bị cáo biết rất rõ tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật, song do nghiện ma túy và coi thường pháp luật, nên bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, mà còn tiếp tay cho tệ nạn ma túy ngày càng phát triển, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết và phải có mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân của bị cáo. Nhân thân bị cáo mặc dù chưa có tiền án, tiền sự, song do coi thường pháp luật nên đã đi vào con đường phạm tội. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt.

[5] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xét đến tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, thái độ tỏ ra ăn năn hối cải, nên tòa áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền được quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự. Song xét thấy bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 0,236 gam heroin.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Phạm Thanh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào : Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, điều 38, điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt

Phạm Thanh N 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2021.

- Căn cứ điều 106, 135, khoản 2 điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự.

- Căn cứ điểm 6.1.2 mục b Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của quốc Hội. Nghị quyết số 326/2013/UBTVQH 14 ngày 30/12/2013 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,236 gam ma túy loại heroine đã giám định, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo. Các vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự quận Ba Đình theo biên bản giao vật chứng số 149 ngày 30/6/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ba Đình.

Án phí HSST:

Bị cáo Phạm Thanh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Thanh N có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./về tội,

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2022/HSST

Số hiệu:112/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về