Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm, thụ lý số 635/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 641/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1, Dương Trọng V, tên gọi khác: Dương Văn M; Sinh năm 1970, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 5, thị trấn S, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Trọng O (đã chết) và con bà Đỗ Thị M, sinh năm 1942; Gia đình có bốn anh chị em, bị cáo là con thứ 3; Vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1981 (đã ly hôn), có 01 con chung sinh năm 2000;

Tiền sự: không; Tiền án: 01 Tại bản án số 99/2019/HSST ngày 21/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt Dương Trọng V 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/3/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/10/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

2, Trần Thanh S, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1979, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm Đ, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh Ph, sinh năm 1953 và con bà Hoàng Thị L, sinh năm 1958; Gia đình có ba anh chị em, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Ngô Thị Q, sinh năm 1989 (đã ly hôn), có 01 con chung sinh năm 2006;

Tiền án,Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/10/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn H, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Xóm HT, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

Người chứng kiến:

Anh Nguyễn Khắc D, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: TDP ĐT, phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 20/10/2021, Tổ công tác Công an phường ĐB, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố Đồng Tâm, phường ĐB, thành phố TN thì phát hiện 02 người đàn ông đang ngồi trên chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20L2-3506 có biểu hiện nghi vấn phạm tội, tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra và mời người chứng kiến. Hai người đàn ông chấp hành và khai họ tên là Dương Trọng V và Trần Thanh S. Quá trình kiểm tra, V giao nộp từ tay trái của V 01 bơm kim tiêm bên trong chứa chất bột màu trắng, V khai nhận đó là ma túy Heroine của V. S giao nộp từ trong lòng bàn tay trái của S 01 bơm kim tiêm bên trong chứa chất bột màu trắng, S khai nhận đó là ma túy Heroine của S. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với V, S và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 20L2-3506.

Cùng ngày, tiến hành cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Dương Trọng V có khối lượng 0,055 gam, lấy mẫu V1 gửi giám định. Cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Trần Thanh S có khối lượng 0,112 gam, lấy mẫu ký hiệu S1 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 1510/KL-KTHS ngày 28/10/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu V1 gửi giám định là chất ma túy loại Heroin, khối lượng thu giữ là 0,055 gam. Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu S1 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng thu giữ là 0,112 gam.

Tại cơ quan điều tra, Dương Trong V và Trần Thanh S khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 20/10/2021, V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20L2- 3506 đi từ chỗ làm đến khu vực cổng chào khu đô thị Danko City, thuộc phường CH , thành phố TN thì gặp S. V và S rũ nhau góp tiền (mỗi người 50.000 đồng) mua ma túy Heroine để sử dụng, S đưa V 50.000 đồng. V cầm tiền rồi chở S đi đến hiệu thuốc thuộc phường CH, thành phố TN để V vào mua 02 xilanh và 02 ống nước cất. Sau đó, V tiếp tục chở S đi đến khu vực cầu Gia Bẩy, thuộc phường ĐB, thành phố TN thì dừng xe, S đứng đợi ở xe còn V đi bộ vào khu vực đường dân sinh gần cầu GB. Tại đây, V gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng . Mua xong, V đi ra chỗ S đứng chờ rồi chở S đến khu vực dãy nhà trọ thuộc phường ĐB, thành phố TN thì V dừng xe và đi bộ cùng S vào trong ngõ. Tại đây, V chia gói ma túy vừa mua được làm 02 phần rồi đưa cho S một phần cùng 01 xi lanh và 01 ống nước cất. Khi V và S cho số ma túy vừa chia vào xilanh để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường ĐB, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chúng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 02/CT - VKSTPTN ngày 15/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Dương Trọng V và Trần Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay, sau khi phân tích, đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Dương Trọng V và Trần Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Dương Trọng V mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh S mức án từ 18 đến 24 tháng tù . Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu V1, 01 phong bì niêm phong ký hiệu S1; 02 ống novocain; 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô BKS 20L2-3506, tạm giữ để thi hành án cho bị cáo.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật và được hưởng mức án thấp nhất Bị cáo Dương Trọng V xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với xã hội và xin trả lại cho bị cáo chiếc xe BKS 20L2-3506. Bị cáo Trần Thanh S xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật cho bị cáo đưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn H vắng mặt. Quá trình điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã có lời khai và không có khiếu nại gì đối với quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Việc vắng mặt anh H tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Do nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ ngày 20/10/2021, Dương Trọng V và Trần Thanh S rủ nhau góp tiền mỗi người 50.000 đồng để đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Sau đó V và S cùng chở nhau đi đến khu vực cầu Gia Bẩy mua 0,167 gam ma túy về để sử dụng, chưa kịp sử dụng thì bị công an phường Đồng Bẩm phát hiện bắt quả tang, thụ giữ vật chứng.

Hành vi tàng trữ trái phép 0,167 gam ma túy, loại heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo Dương Trọng V và Trần Thanh S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:.

...

c. Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”

[3]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các bị cáo có đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma túy và hậu quả của việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm suy giảm sức khỏe con người, làm phát sinh các loại tội phạm khác và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Trong vụ án, các bị cáo cùng nhau thỏa thuận, thống nhất góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo V là người trực tiếp giao dịch mua ma túy. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo Dương Trọng V có nhân thân xấu, năm 2019 bị Tòa án nhân dân thành phố quận LBB, thành phố HN xử phạt 14 tháng tù cũng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục đi vào con đường nghiện ngập, phạm tội. Do đó cần phải buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo, mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 01 tiền án năm 2019 chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, do đó phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Trần Thanh S chưa có tiền án tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo S không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[5]. Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ cùng 02 ống nước cất Nobocain, 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng của các bị cáo cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm sát 20L2-3506 thu giữ của bị cáo Dương Trọng V: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai mua chiếc xe trên của anh Trần Văn Hở xóm HT, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên với giá 2.500.000 đồng, bị cáo đã trả cho anh Hoàng 1.000.000 đồng còn nợ lại 1.500.000 đồng là phương tiện dụng cụ Dương Trọng V dùng vào việc đi mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Quá trình điều tra, anh Trần Văn Hoàng thừa nhận việc có bán cho Dương Trọng V chiếc xe biển kiểm sát 20L2-3506 với giá 2.500.000 đồng, V đã trả được 1.000.000 đồng còn nợ lại 1.500.000 đồng, nếu có tranh chấp thì anh Hoàng có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]. Trong quá trình điều tra, Dương Trọng V khai mua ma túy của một người đàn ông không quen biết (không rõ họ, tên, địa chỉ) ở khu vực cầu Gia Bẩy, thành phố Thái Nguyên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

[8] Các Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: bị cáo Dương Trọng V và Trần Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Dương Trọng V 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2021.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Trần Thanh S 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2021.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Trọng V và Trần Thanh S 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01(một) bì niêm phong ký hiệu S1 (hoàn trả 0,089 gam mẫu S1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu S1), mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên cùng chữ ký của Trương Đăng Tam, Mai Tố Uyên.

- 01(một) bì niêm phong ký hiệu V1 (hoàn trả 0,025 gam mẫu V1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu V1), mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên cùng chữ ký của Trương Đăng Tam, Mai Tố Uyên.

- 02 (hai) ống novocain - 02 (hai) bơm kim tiêm (đã qua sử dụng) Tịch thu sung quỹ ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô BKS 20L2- 3506 màu S xanh, nhãn hiệu FOCOL, số máy: VLKMEQH152FMH- A*00000373*, số khung: RMEWCH2ME5A000904, số loại 110, loại xe hai bánh từ 50-175cm3, dung tích xi lanh 107 (xe đã qua sử dụng).

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 12 năm 2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục THADS thành phố Thái Nguyên.

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Dương Trọng V và Trần Thanh S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về