Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 03 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn P; sinh năm: 1975; nơi sinh: huyện YL, tỉnh VP; nơi cư trú: Tổ dân phố LY, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh VP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Văn H và bà Phùng Thị Đ ; có vợ là Lò Thị T (sinh năm: 1979) và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2008); tiền án: không; tiền sự: không. Bị bắt hồi 18 giờ 30 phút ngày 12 tháng 11 năm 2020; bị tạm giữ từ ngày 13 tháng 11 năm 2020 đến ngày 22 tháng 11 năm 2020; tạm giam từ ngày 22 tháng 11 năm 2020 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sìn Hồ đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 08 tháng 11 năm 2020, Trần Văn P đang ở trong lán khai thác vàng trái phép tại bản Nậm Béo, xã Pu Sam Cáp, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu thì có một người đàn ông khoảng 20 tuổi, không rõ lai lịch đến lán hỏi P là có mua heroine không, người đàn ông có 01 gói heroine bán với giá 350.000 đồng. Bản thân là người nghiện ma túy và sẵn có tiền trong túi nên P đồng ý mua gói heroine để sử dụng, P cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người, người đàn ông đi ra ngoài, còn đi đâu thì P không rõ. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, P lấy gói heroine mua được của người đàn ông mở ra xem thì thấy được gói hai lớp nilon, lớp bên ngoài được gói bằng nilon màu đen, lớp bên trong được gói bằng nilon màu trắng, P lấy dao lam (dao cạo râu) của P cắt lấy một ít sử dụng, phần còn lại P chia thành 02 cục nhỏ, gói lại như cũ rồi cất vào trong túi áo khoác đang mặc không cho ai biết với mục đích sử dụng dần. Hồi 18 giờ 30 phút ngày 12 tháng 11 năm 2020, P lấy gói heroine cắt ra lấy một ít để sử dụng, khi đang sử dụng thì bị Tổ Công tác cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của Trần Văn P 01 gói chất bột màu trắng có khối lượng 0,8 gam, được gói bằng hai lớp nilon, lớp bên ngoài gói bằng nilon màu đen, bên trong gói bằng nilon màu trắng, P khai nhận đó là heroine, P tàng trữ với mục đích để sử dụng.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 08 giờ 30 phút ngày 14 tháng 11 năm 2020 và bản Kết luận giám định tư pháp số:

51, ngày 14 tháng 11 năm 2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc là ông Trần Văn Minh thể hiện: mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn P (sau khi đã loại bỏ bao bì) có khối lượng là 0,8 gam; lấy toàn bộ 0,8 gam chất bột màu trắng làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy, vật chứng còn lại gồm: 01 mảnh nilon màu Trắng, 01 mảnh nilon màu đen.

Tại Bản kết luận giám định số: 547/GĐ-KTHS ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (không hoàn lại đối tượng giám định).

Tại Bản cáo trạng số: 08/CT-VKSSH ngày 05 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Trần Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy 02 mảnh nilon (trong đó 01 mảnh màu trắng và 01 mảnh màu đen), 01 lưỡi dao lam, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy là vật bị cáo đã sử dụng để gói Heroine do đây là công cụ, phương tiện bị cáo đã dùng để thực hiện hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 18 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại lán khai thác vàng trái phép thuộc bản Nậm Béo, xã Pu Sam Cáp, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, Trần Văn P đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,8 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu bắt quả tang. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhân thân của bị cáo, với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm lan truyền bệnh tật, các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Trước khi bị cáo bị bắt, bị cáo đã sử dụng ma túy được 02 năm, thấy rằng bị cáo đã không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Thấy rằng cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn P không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bố của bị cáo là ông Trần Văn H là người đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì, theo quyết định số: 79/KT/CTN ngày 13 tháng 3 năm 1996 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, sự chi ân của Nhà nước đối với người đã có công với cách mạng và người thân của họ, đồng thời thể hiện sự sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu đen, là công cụ đã được sử dụng để gói Heroine, 01 lưỡi dao lam, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy là công cụ P đã dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, hiện nay những vật chứng này không có giá trị sử dụng, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, để tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 0,8 gam Heroine đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định chất ma túy. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về nguồn gốc Heroine và trách nhiệm của người có liên quan:

Trong quá trình điều tra, Trần Văn P khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 08/11/2020 P đã mua heroine từ một người đàn ông khoảng 20 tuổi, không rõ lai lịch. Đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu không xác định được người đàn ông này là ai, nên không đề cập xử lý trong vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, 1. Tuyên bố: bị cáo Trần Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Xử phạt bị cáo Trần Văn P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 13 tháng 11 năm 2020).

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, để tịch thu và tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen, 01 lưỡi dao lam và 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy.

4. Án phí sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 23 tháng 3 năm 2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2021/HS-ST

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về