Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P – TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2022/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2022/HSST-QĐ ngày 08/7/2022 đối với bị cáo:

KIỀU VŨ V (tên gọi khác: Nhí) - sinh ngày 10/11/1994, tại Quảng Ngãi; Nơi ĐKHKTT: Thôn Năng T, xã Nghĩa P, huyện Tư N, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Khu phố 14, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa xe; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Kiều Thanh H (chết) và bà Võ Thị N, sinh năm 1961, Vợ con: Chưa có; Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con út trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ cấm đi khỏi nơi cư trú” .

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 17giờ ngày 30/08/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên V sử dụng số thuê bao 0377870470 gọi vào số thuê bao 0947272371 của người tên T (không rõ nhân thân) hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá, T đồng ý và hẹn V đến địa chỉ 79 Phạm Ngọc Thạch, phường P, thành phố P để giao ma túy. Khoảng 05 phút sau, V điều khiển xe mô tô mang biển số 59V1 – 50642 từ nhà đến điểm hẹn gặp T, T đưa cho V 2 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng. V bỏ 02 gói nylon vào túi quần phía trước bên phải rồi đưa 400.000 đồng cho T. Sau đó, V điều khiển xe mô tô đang lưu thông trên đường Hùng Vương thì bị bị lực lượng công an phường P kiểm tra hành chính, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải Trí có 02 gói nylon được hàn kín hai đầu. V khai nhận đây là ma túy V mua về để tàng trữ sử dụng dần. Công an phường P đã lập biên bản ghi nhận sự việc đối với V về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và thu giữ các vật chứng có liên quan gồm:

- 02 gói nylon không màu, hàn kín hai đầu, mỗi gói có kích thước khoảng (03 x 02) cm, bên trong mỗi gói nylon có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu giám định M).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, số IMEI1: 862208043476056, số IMEI2: 862208043476049.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Click, màu đen, biển số: 59V1 – 50642. Không kiểm tra chi tiết bên trong.

Tại Bản kết luận giám định số 1136/KLGĐ-PC09 ngày 24/09/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,5617 gam, là Methamphetamine.

- Hoàn lại mẫu vật sau giám định:

+ 02 gói nylon màu trắng, đã cắt lấy mẫu và 0,4785 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1136, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Xử lý vật chứng:

Xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Click, màu đen, biển số: 59V1 – 50642 do chị Nguyễn Thị Hoa H đứng tên sở hữu. Chị H đã bán chiếc xe nêu trên cho chị Đỗ Nguyễn Kỳ D, giữa chị H và chị D có làm hợp đồng mua bán xe có công chứng chứng thực ngày 09/11/2017. Chị D lấy xe mô tô nêu trên đến tiệm của V để sửa xe, V đã lấy xe của chị D đi mua ma túy. Việc V lấy xe đi mua ma túy chị D không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho chị D, chị D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Vật chứng còn lại gồm: 02 gói nylon màu trắng, đã cắt lấy mẫu và 0,4785 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1136, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, số IMEI1: 862208043476056, số IMEI2: 862208043476049, V sử dụng để liên lạc mua ma túy. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển vật chứng nêu trên đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P bảo quản chờ xử lý.

Đối với số thuê bao 0377870470 và 0947272371, cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố P đã tiến hành xác minh chủ thuê bao các số điện thoại này nhưng hiện chưa có kết quả.

Tại các lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản ghi lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo Kiều Vũ V có hành vi tàng trữ trái phép tổng cộng 0,5617 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Với hành vi nêu trên, ngày 13/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố P ra bản cáo trạng số 68/CT-VKS truy tố bị cáo V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép 0,5617 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đề nghị xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì bị cáo V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm c khoản 01 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Kiều Vũ V từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy các mẫu vật còn lại sau giám định, 02 gói ni lon đã cắt lấy mẫu và 0,4785 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1136, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, số IMEI1: 862208043476056, số IMEI2: 862208043476049, là vật chứng Vũ liên lạc mua ma túy.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ, ngày 30/8/2021, tại khu vực đường Hùng Vương, V đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,5617 gam Methamphetamine trong trong túi quần phía trước bên phải để sử dụng thì bị Công an phường P kiểm tra hành chính phát hiện và bắt quả tang.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy; bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 13/6/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

Vũ biết Methamphetamine là loại ma túy nằm trong danh mục nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm tàng trữ trái phép vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người và trật tự trị an xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi này không những xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử phạt một mức án tù tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Click, màu đen, biển số: 59V1 – 50642 của chị Đỗ Nguyễn Kỳ D, Chị D lấy xe mô tô nêu trên đến tiệm của V để sửa xe, V đã lấy xe của chị D đi mua ma túy. Việc V lấy xe đi mua ma túy chị D không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho chị D, chị D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 02 gói ni lon đã cắt lấy mẫu và 0,4785 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1136, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, số IMEI1:

862208043476056, số IMEI2: 862208043476049, là vật chứng V liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[6] Đối với đối tượng T bán ma túy cho V, do không có nhân thân nên không có cơ sở xử lý hình sự là có cơ sở.

[7] Đối với số thuê bao 0377870470 và 0947272371, cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố P đã tiến hành xác minh chủ thuê bao các số điện thoại nhưng hiện nay chưa có kết quả. Đề nghị tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau là có cơ sở.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: điểm c khoản 01 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Tuyên bố: Bị cáo Kiều Vũ V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Kiều Vũ V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định gồm: 01 phong bì niêm phong số 1136, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, số IMEI1: 862208043476056, số IMEI2: 862208043476049.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 95 ngày 27/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Kiều Vũ V nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo của bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (20/7/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về