Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU – TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 145/2022/TLST- HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H; tên gọi khác: không; sinh ngày 04/7/1988, tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú hiện nay (nơi thường trú): khu 1, phường Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M và bà: Bùi Thị T; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: chưa; bị tạm giữ ngày 02/11/2021, bị tạm giam từ ngày 11/11/2021; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đỗ Thị T, địa chỉ: Khu Y, phường T, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

2. Nguyễn Thị T, địa chỉ: Thôn C, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Bùi Thị T. Có mặt.

* Người chứng kiến: Đỗ Văn O, Nguyễn Thị S, Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 50 phút ngày 02/11/2021, Tổ Công tác Công an thị xã Đông Triều trong khi làm nhiệm vụ tại đoạn đường dân sinh thuộc thôn Hoành Mô, xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, phát hiện Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển kiểm soát 14Z1- 234.48, tổ công tác yêu cầu H dừng xe kiểm tra thì H bỏ chạy và vứt 01 túi nilon kích thước (3,8x04)cm xuống lòng đường, lực lượng Công an bắt giữ H và thu giữ túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng cách vị trí của H khoảng 03m. Trong túi nilon có chứa chất tinh thể màu trắng, H khai đó là ma túy H mua để sử dụng. Ngoài ra, còn thu giữ của H 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 0372.341.878 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển kiểm soát 14Z1-234.48.

Cùng ngày Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại khu 1, phường Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, thu giữ tại kệ đầu giường trong phòng ngủ của H 01 túi nilon màu trắng, kích thước (3,8x4,1)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 2020/KLGĐ ngày 09/11/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon kích thước (3,8x4)cm trong phong bì bên ngoài ghi: Vật chứng thu giữ tại biên bản bắt người phạm tội quả tang của Nguyễn Văn H mẫu vật ký hiệu là M1 gửi giám định là ma túy Loại: Methamphetamine; khối lượng: M1:

2,263gam; chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon kích thước (3,8x4,1)cm trong phong bì bên ngoài ghi: Vật chứng thu giữ tại phòng ngủ của Nguyễn Văn Hà ký hiệu là M2 gửi giám định là ma túy Loại: Methamphetamine; khối lượng: M2: 0,144gam. Tổng khối lượng: 2,407gam.

(Methamphetamine nằm trong Danh mục IIC, STT:323; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS-ĐT ngày 27 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt chính:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 21 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái trái phép chất ma túy”, thời hạn tù từ ngày bị bắt 02/11/2021.

- Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Áp dụng các Điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy 01phong bì niêm phong số 2020/KLGĐ chứa ma túy và 01phong bì niêm phong số 2101/KLGĐ chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, gắn sim số 0372341878.

Tại phần tranh luận, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều; đồng thời xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra đều hợp pháp và đúng trình tự tố tụng.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 12 giờ ngày 02/11/2021 bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiện Honda Wave, biển kiểm soát 14Z1-234.48 từ nhà đi đến khu vực bờ sông Kinh Thầy giáp với phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều. Tại đây, bị cáo gặp người đàn ông tên P (không rõ lai lịch địa chỉ) đang chèo thuyền trên sông. Bị cáo hỏi mua 500.000 đồng ma túy dạng đá thì P bảo “ném tiền xuống thuyền”. Sau khi bị cáo ném 500.000 đồng xuống thuyền, P ném lên bờ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Bị cáo nhặt vỏ bao thuốc lá kiểm tra bên trong chứa 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, bị cáo xác định là ma túy nên vất vỏ bao thuốc đi, còn túi nilon chứa ma túy cất giấu vào trong lòng bàn tay trái, điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi bị cáo đi đến khu vực đường dân sinh thuộc thôn Hoành Mô thấy lực lượng Công an yêu cầu dừng xe, do hoảng sợ nên bị cáo bỏ lại xe mô tô vất túi ma túy ra lòng đường để bỏ chạy được khoảng 03m thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Túi ma túy thu giữ tại phòng ngủ của bị cáo có nguồn gốc mua của P ở bờ sông Kinh Thầy khoảng thời gian trước đó 2 tháng với giá 100.000 đồng cất giấu ở trên kệ sát đầu giường mục đích để sử dụng.

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị T và Nguyễn Thị T; phù hợp với lời khai của người làm chứng và người chứng kiến; phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 02/11/2021, tại đoạn đường dân sinh thuộc thôn Hoành Mô, xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 2,263 gam ma túy loại Methamphetamine bị phát hiện bắt quả tang; Ngoài ra H còn tàng trữ trong phòng ngủ của mình tại khu 1, phường Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh 0,144 gam chất ma túy loại Methamphetamine. Tổng khối lượng là 2,407 gam nhằm mục đích để sử dụng.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã xâm phạm đến khách thể là các quy định của nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện. Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức điều khiển hành vi của mình và hiểu rõ tác hại của ma túy cũng như sự nghiêm cấm của pháp luật đối với các hành vi liên quan đến ma túy. Nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém, nên bị cáo đã bất chấp pháp luật sa vào con đường nghiện hút, đi tìm mua ma túy về sử dụng cho thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[4] Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) … Methamphetamine, … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[5] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều và quan điểm của kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa truy tố các bị cáo ra xét xử trước Tòa án theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan, cần chấp nhận. Việc đưa bị cáo ra xét xử công khai và áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra là cần thiết.

[6] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: không.

Tình tiết giảm nhẹ: sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng vụ án:

- Số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định số 2020/KLGĐ ngày 09/11/2021 là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 2101/KLGĐ ngày 29/11/2021 không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 0372.341.878 không liên quan đến việc phạm tội nên tuyên trả lại cho bị cáo.

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu sơn xanh, biển kiểm soát 14Z1-234.48, số khung RLHHC1212DY789412, số máy HC12E5789514 bị cáo sử dụng khi tàng trữ ma túy, kết quả điều tra xác định chiếc xe là tài sản của chị Nguyễn Thị T (em gái bị cáo) cho bị cáo mượn, chị T không biết việc bị cáo sử dụng xe để mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Về trách nhiệm dân sự: chị Đỗ Thị T khai nhận mình là người chủ sở hữu đầu tiên của chiếc xe mô tô bị cáo H sử dụng khi đi đang tàng trữ ma túy nhưng đã bán chiếc xe này. Chị Nguyễn Thị T đã nhận lại tài sản không có ý kiến nào khác nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[11] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tính từ ngày 02/11/2021;

Áp dụng Điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định số 2020/KLGĐ ngày 09/11/2021;

+ 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 2101/KLGĐ ngày 29/11/2021.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 0372.341.878.

(Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 35 ngày 28/12/2021 giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Đỗ Thị T và chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về