Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN L (tên gọi khác Nguyễn Văn L), sinh ngày 27 tháng 3 năm 1992 tại xã Th, huyện B, TP Hà Nội; Trú tại: Thôn Th, xã Th, huyện B, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L; Vợ: Lù Thị Th, Con: Có 02 con sinh năm 2016 và 2018; Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/10/2021 đến ngày 19/10/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Danh S – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước TP Hà Nội. (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Viết S1, sinh năm 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện B, TP Hà Nội.

Người làm chứng: Ông Khuất Văn T, sinh năm 1970 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 1, xã T, huyện Ph, TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 ngày 12 tháng 10 năm 2021, Nguyễn Văn L là đối tượng nghiện hút ma túy, do muốn sử dụng ma tuý, nên L đi xe máy Dream BKS:33L5- xxxx một mình từ nhà đến khu vực đê thuộc địa bàn Thôn 1, xã T, huyện Ph, gặp một nam thanh niên lạ mặt, thấy người này có biểu hiện giống người nghiện ma túy, nên L hỏi mua ma túy và đưa cho người này 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Người thanh niên này cầm tiền và đưa lại cho L một gói nhỏ nilong kích thước khoảng 2x2cm bên trong chứa ma tuý đá. Sau khi mua được ma tuý, L cầm gói ma tuý đá trên tay trái rồi quay xe máy đi về và tìm chỗ sử dụng. Trên đường L đi về thì bị lực lượng Công an xã T yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Do hoảng sợ nên L buông gói ma tuý đang cầm trên tay trái xuống đường ngay tại vị trí L đứng cách khoảng 30cm. Lực lượng Công an xã T hỏi tên, tuổi, địa chỉ và hỏi vừa buông đồ vật gì xuống đường. Biết không thể trốn được, L đã khai nhận việc đi mua ma túy về để sử dụng và tự giác nhặt gói ma tuý giao nộp. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tại chỗ vật chứng, đưa L về trụ sở Công an xã T để làm việc.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng có kích thước 2x2cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (L khai nhận là ma tuý đá) - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã cũ, mặt kính điện thoại bị vỡ.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Dream mang BKS: 33L5-xxxx;

Ngày 13/10/2021, CQĐT Công an huyện Phúc Thọ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn L tại thôn Th, xã Th, huyện B, TP. Hà Nội. Quá trình khám xét, CQĐT không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Ngày 12/10/2021, CQĐT Công an huyện Phúc Thọ ra Quyết định trưng cầu giám định; Ngày 20/10/2021, Phòng kỹ thuật hình sự (PC09)- CATP Hà Nội có bản kết luận giám định số 7539/KLGĐ- PC09, kết luận như sau: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,418 gam”.

Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra, L khai mua ma túy của người đàn ông không quen biết đứng ở khu vực đê xã T, huyện Ph. Người đàn ông này có đặc điểm cao khoảng 1m70, dáng người béo, mặc quần bò, áo dài tay màu đen, đeo khẩu trang, đội mũ bảo hiểm nên không nhìn rõ mặt, do không để ý nên không rõ biển kiểm soát và kiểu dáng chủng loại của xe máy. Cơ quan CSĐT Công an huyện Phúc Thọ đã cùng Công an xã T tiến hành xác minh rà soát nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy cho L. Do vậy, CQĐT không đề cập xử lý trong vụ án này, khi làm rõ sẽ xử lý sau.

Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

- 01 (một) gói nhỏ bằng nilon có kích thước 2x2cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng được cho vào phong bì niêm phong dán kín, bên ngoài có chữ kí của Nguyễn Văn L và chữ kí của cán bộ Công an xã T; Đây là vật chứng của vụ án, chuyển đến kho vật chứng của Chi cục THADS huyện Phúc Thọ để bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream BKS:33L5-xxxx; L khai mượn của Nguyễn Viết1, sinh năm 1985, HKTT: Thôn H, xã T, huyện B; Chỗ ở hiện tại: Thôn Th, xã Th, huyện B. CQĐT đã tra cứu chiếc xe trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng.

Ngày 06/11/2021, CQĐT Công an huyện Phúc Thọ ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số khung, số máy, biển kiểm soát của chiếc xe máy thu giữ. Ngày 06/12/2021, Phòng PC09- CATP Hà Nội có bản kết luận giám định số 8511/KL- PC09-Đ3, kết luận: Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA DREAM đeo biển kiểm soát: 33L5-xxxx gửi giám định, hiện tại có số khung: C100M - 0333998 và số máy: C100ME - 0333998 là số nguyên thuỷ.

- Kết quả tra cứu thông tin về chiếc biển kiểm soát 33L5-xxxx, xác định chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn Y, sinh năm: 1973, HKTT: Xóm C – Xã T- Huyện B - Hà Nội. Anh Y đã bán chiếc xe máy này vào khoảng năm 2011, khi mua bán không có giấy tờ gì, do lâu nên không nhớ rõ bán cho ai.

- Kết quả tra cứu thông tin số khung, số máy của xe (SK:0333998; SM:0333998); Xác định chủ sở hữu là: Ngô Thị Minh H trú tại 97 – Đường Y – Quận B - Hà Nội. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, kết quả: công dân Ngô Thị Minh H, sinh năm:1962, có HKTT: 97 - Đường Y – Phường Q - Quận B - Hà Nội, nhưng hiện tại Ngô Thị Minh H không sinh sống, cư trú trên địa bàn, không rõ hiện ở đâu, làm gì.

- CQĐT đã làm việc với anh Nguyễn Viết S1, anh S1 trình bày: Chiếc xe máy BKS: 33L5-xxxx, anh S1 mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực thị xã S khoảng năm 2017, khi mua bán có giấy tờ viết tay, nhưng đã làm mất nên không nhớ thông tin người bán xe. Anh S1 sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện hàng ngày. Sáng ngày 12/10/2021, anh S1 cho L mượn xe máy nhưng không biết việc L sử dụng xe máy để đi mua ma tuý.

Chiếc xe máy mà cơ quan điều tra thu giữ, có thông tin về biển kiểm soát và số khung, số máy không cùng một chủ sở hữu. Bản thân Nguyễn Viết S1 không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xe. Do đó, cơ quan điều tra chuyển đến kho vật chứng của Chi cục THADS huyện Phúc Thọ để bảo quản, chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc điện thoại điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã cũ, mặt kính điện thoại bị vỡ thu giữ của Nguyễn Văn L: Kết quả xác minh, chiếc điện thoại nói trên không liên quan đến việc Nguyễn Văn L mua bán ma tuý. Do đó, ngày 24/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phúc Thọ đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc điện thoại trên cho Nguyễn Văn L.

Tại bản Cáo trạng số: 05/CT-VKSPT ngày 18 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 135, 136 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ;

Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy đối với:

Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Văn L và chữ ký của cán bộ Công an xã T;

- Trả lại anh Nguyễn Viết S1 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream đã cũ, gắn biển kiểm soát 33L5-xxxx Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo phạm tội do thiếu hiểu biết, trình độ nhận thức hạn chế. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo với mức hình phạt phù hợp thể hiện sự khoan hồng và tính nhân văn của pháp luật.

Bị cáo đã thừa nhận nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, có ăn năn hối cải về hành vi của mình nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt ở mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Khoảng 21 giờ 30 ngày 12/10/2021, Nguyễn Văn L đang có hành vi cất giấu trái phép 01(một) gói ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,418 gam, mục đích để sử dụng cá nhân, tại đoạn đường đê thuộc Thôn 1, xã T, huyện Ph, bị Công an xã T, huyện Ph phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất mức độ của vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, làm mất trật tự trị an ở địa phương.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, sống tại xã Th là xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Về nguồn gốc số ma túy: L khai mua ma túy của người đàn ông không quen biết tại khu vực đê xã T, huyện Ph, TP Hà Nội, người này có đặc điểm cao khoảng 1m70, dáng người béo, mặc quần bò, áo dài tay màu đen, đeo khẩu trang, đội mũ bảo hiểm nên không nhìn rõ mặt, do không để ý nên L không rõ biển kiểm soát và kiểu dáng chủng loại xe máy. Cơ quan điều tra Công an huyện Phúc Thọ đã cùng với Công an xã T tiến hành xác minh, rà soát nhưng không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho L. Do vậy cơ quan điều tra không đề cập, xử lý trong vụ án này, khi làm rõ sẽ xử lý sau.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, thuộc hộ cận nghèo, không có điều kiện về kinh tế để thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Văn L và chữ ký của cán bộ công an xã T: Do không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream đã cũ, gắn biển kiểm soát 33L5-xxxx thu giữ của L, L khai mượn xe của anh Nguyễn Viết S1. Qua điều tra xác minh thì chiếc xe trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng nhưng thông tin biển kiểm soát và thông tin số khung số máy lại không cùng một chủ sở hữu. Anh S1 khai mua xe này của một người không quen biết ở khu vực S, khi mua bán có viết giấy tờ nhưng anh đã làm mất nên không có giấy từ chứng minh nguồn gốc xe.

Song L và anh S1 đều thống nhất việc L mượn chiếc xe này của anh S1, xác định là tài sản của anh S1 nên cần trả lại anh Nguyễn Viết S1.

[8]. Về án phí: Do bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. - Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 13/10/2021 đến ngày 19/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy đối với: Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Nguyễn Văn L và chữ ký của cán bộ công an xã T;

Trả lại anh Nguyễn Viết S1 một xe nhãn hiệu Honda Dream đã cũ, gắn biển kiểm soát 33L5-xxxx (Vật chứng được lưu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2022.).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về