Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Văn T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 05/4/1987 tại huyện T, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn D và bà Bùi Thị X; có vợ là Hà Thị B (đã chết) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2018, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 16 tháng (Quyết định số 09/2018/QĐ-TA ngày 25/7/2018); bị tạm giữ ngày 04/10/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 13/10/2023 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Văn D, sinh năm 1967; nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Phạm Đức K, sinh năm 1980; nơi cư trú: Xóm A, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 04/10/2023, Bùi Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28E1 - A.83 từ nhà mình đi lên thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu T, thị trấn M (Đoạn đường nhánh từ Quốc lộ A rẽ vào khoảng 500 mét), T nhìn thấy một người đàn ông không quen biết đang đứng ở lề đường bên trái theo hướng đi, có dáng vẻ giống người nghiện ma túy. T dừng xe và hỏi người đàn ông có biết ai bán “trắng” (Heroine) không, em muốn mua một ít để dùng. Người đàn ông hỏi T muốn mua bao nhiêu thì T trả lời muốn mua 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng “trắng”. Người đàn ông trên đồng ý và bảo T đứng ở đây chờ. Sau đó, người đàn ông điều khiển xe mô tô (Không rõ biển kiểm soát) theo hướng ra Quốc lộ F. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông trên quay lại đưa cho T một gói nilon màu trắng. T mở gói nilon ra kiểm tra thấy đúng là ma túy, loại Heroine, nên đã trả người đàn ông số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Sau đó, T cầm gói ma túy vừa mua được ở lòng bàn tay trái, rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi T đi về đến đoạn đường nhánh rẽ vào xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình thuộc địa phận xóm A, xã T thì gặp tổ công tác của Công an huyện T yêu cầu dừng xe mô tô để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện, bắt quả tang T đang cầm trong lòng bàn tay trái một gói nilon màu trắng. T khai nhận đây là gói ma túy, loại Heroine vừa mua được, nhằm mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã đưa T cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở UBND xã T, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 427/KL-KTHS, ngày 12/10/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh H kết luận: Chất bột trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ vụ: Bùi Văn T, sinh năm 1987, nơi thường trú: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra tại xóm A, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình ngày 04/10/2023” gửi giám định có khối lượng 0,12g (Không phẩy mười hai gam), là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 13/12/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn T một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Bùi Văn D tại phiên tòa: Ông D là bố đẻ của bị cáo Bùi Văn T. Về sự việc ngày 04/10/2023, Bùi Văn T sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 28E1 - A.83 thuộc sở hữu của ông để đi mua ma túy thì ông không biết. Ngày 15/11/2023, ông D đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T trả lại chiếc xe mô tô trên, nên ông D không có đề nghị gì.

* Đối với người chứng kiến là anh Phạm Đức K vắng mặt tại phiên tòa. Lời khai của anh K và các tài liệu, chứng cứ có trong giai đoạn điều tra thể hiện: Anh K được chứng kiến Công an huyện T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và lập biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu tạm giữ của Bùi Văn T ngày 04/10/2023. Các hoạt động tố tụng mà anh K được chứng kiến nêu trên phù hợp với các tình tiết của vụ án và đã được xem xét công khai tại phiên toà.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu của bị cáo Bùi Văn T toàn bộ khối lượng ma túy còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K1 Công an tỉnh H để tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 28E1 - A.83 của ông Bùi Văn D. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông D, nên không xét đến.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo Bùi Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là Bùi Văn D không có ý kiến tranh luận.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T thu thập hợp pháp gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn T ngày 04/10/2023; Vật chứng thu được của bị cáo Bùi Văn T là một gói nilon màu trắng, bên trong là lớp giấy, trong cùng chứa chất bột màu trắng mà bị cáo khai là ma túy, loại Heroine, mua được để sử dụng cho bản thân; Kết luận giám định số 427/KL-KTHS, ngày 12/10/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh H; Các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Bùi Văn T trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Được chứng minh bằng vật chứng thu được, kết luận giám định chất ma túy cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 04/10/2023, tại đoạn đường nhánh rẽ vào xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình, thuộc địa phận xóm A, xã T. Tổ công tác của Công an huyện T đã kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang bị cáo Bùi Văn T có hành vi tàng trữ trái phép một gói ma túy có khối lượng là 0,12g (Không phẩy mười hai gam), loại Heroine, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Bùi Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hiểm họa của toàn thể nhân loại, là tệ nạn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức đấu tranh, cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, nhằm loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Nhưng do nghiện ma túy, nên bị cáo vẫn cố tình mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[4] Về nhân thân: Năm 2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 16 tháng. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho riêng mình mà tiếp tục lao vào con đường nghiện ngập chất ma túy.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện chất ma túy và bản thân không có tài sản gì có giá trị cao, nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã đi mua ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được tên và địa chỉ của người này, nên không xem xét xử lý trong vụ án. Khi nào cơ quan điều tra làm rõ được sẽ xem xét, xử lý sau.

[8] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với một phong bì được Phòng K1 Công an tỉnh H niêm phong chất ma túy của bị cáo còn lại sau khi đã giám định. Xét đây là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 28E1 - A.83 của ông Bùi Văn D, là bố đẻ của bị cáo Bùi Văn T. Xét ông D không có lỗi gì trong việc bị cáo đã sử dụng xe mô tô làm phương tiện đi mua ma túy, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả chiếc xe mô tô trên cho ông D là đúng quy định của pháp luật. Do đó, không xem xét xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 04/10/2023).

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ khối lượng Heroine của bị cáo Bùi Văn T còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K1 Công an tỉnh H. Trên phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Bùi Văn T, sinh năm 1987, nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra tại xóm A, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng K1 Công an tỉnh H và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng số 07, ngày 14/12/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về