Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (mua Heroine) số 11/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST - HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST - HS ngày 08/02/2021, đối với bị cáo: NGUYỄN VĂN T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 05/6/1997 tại huyện C, tỉnh T;

Nơi cư trú: Thôn M, xã L, huyện C, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Ma Thị T; vợ con chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/11/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 08/11/2020, Nguyễn Văn T một mình từ nhà đi bộ ra đường, sau đó đi nhờ xe mô tô của một người không quen biết đến thôn P, xã H, huyện C mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đến nơi T gặp một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ, trông giống người nghiện, T hỏi và mua 1 được 01 gói nhỏ, bên ngoài gói bằng nilon màu đen, bên trong là lớp giấy bạc màu vàng, trong cùng chứa chất bột vón cục màu trắng là Heroine với số tiền 250.000 đồng. Mua được Heroine, T cất giấu vào túi quần bên trái đang mặc rồi đi nhờ xe máy của một người không quen biết về nhà. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến thôn V, xã L, huyện C, T xuống xe đi vào chỗ vắng người lấy gói heroine vừa mua được san ra một ít để sử dụng bằng cách tiêm chích vào cơ thể, số còn lại T gói lại như cũ cất giấu vào túi quần bên trái đang mặc, sau đó đi bộ về nhà. Khi vừa đi được khoảng 100m thì gặp tổ công tác của Công an huyện C đang làm nhiệm vụ phát hiện, nghi T tàng trữ trái phép chất ma túy nên mời về UBND xã L, huyện C để làm việc. Quá trình làm việc T đã tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc ra giao nộp gói ma túy trên và khai nhận cất giấu nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng là số ma túy nêu trên.

Biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy hồi 14 giờ 00 phút ngày 08/11/2020 tại UBND xã L, huyện C đối với Nguyễn Văn T, kết quả: (+) Dương tính với chất ma túy.

Kết luận giám định số: 848/GĐKTHS ngày 11/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy (loại Heroine), có khối lượng 0,139 g (Không phẩy một ba chín gam).

Cáo trạng số 04/CT-VKSCH ngày 15/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Nguyễn Văn T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08/11/2020.

Hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo là người dân dộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, tàng trữ trái phép ma túy mục đích sử dụng cho bản thân không có vụ lợi, không có tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với số Heroine thu giữ trong 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký xác nhận của Nguyễn Văn T, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi “Tang vật vụ: Nguyễn Văn T, giám định ngày 09/11/2020”.

Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Văn T, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/11/2020 tại thôn V, xã L, huyện C, tỉnh T, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy (loại Heroine), có khối lượng 0,139 g (Không phẩy một ba chín gam), mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ trái phép trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma Túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình..., nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", "Là dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn", theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn T, quá trình điều tra do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Công an huyện C, tỉnh T đã ra quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét, xử lý.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy sử dụng cho bản thân không có vụ lợi, bị cáo không có tài sản riêng, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Văn T, 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 08/11/2020.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Văn T. Vật chứng là 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký xác nhận của Nguyễn Văn T, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi “Tang vật vụ: Nguyễn Văn T, giám định ngày 09/11/2020”. Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 27 tháng 01 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hoá.

Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 22/02/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (mua Heroine) số 11/2021/HS-ST

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vào khoảng 12 giờ ngày 16/12/2020, Nguyễn Đức T, Mai Ngọc M và Nguyễn Đình C bàn bạc và chuẩn bị các dụng cụ để đi trộm chó. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, họ lấy các dụng cụ lên xe ô tô biển số 19A-xxxxx của Công ty TNHH Thương mại N do M khoán và lên đường đi trộm chó tại các địa phương thuộc tỉnh Tuyên Quang.

Từ khoảng 2 giờ sáng ngày 17/12/2020, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, họ đã trộm được 8 con chó của các hộ dân tại các xã thuộc huyện Chiêm Hóa và huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Đến khoảng 5 giờ 15 phút sáng ngày 17/12/2020, tại thôn Đồng, xã Xuân Lạc, huyện Sơn Dương, tổ công tác Công an huyện Sơn Dương phối hợp với Công an xã Xuân Lạc đã bắt quả tang Nguyễn Đức T và Mai Ngọc M cùng tang vật gồm 8 con chó, súng bắn điện tự chế, lồng sắt, bao tải, băng dính, dây nhựa và xe ô tô. Nguyễn Đình C đã bỏ trốn nhưng sau đó cũng bị bắt giữ.