Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Heroine) số 19/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20/05/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 06/5/2021 đối với bị cáo:

Phan Văn C , sinh năm: 1989. Nơi cư trú: Bản P, xã P, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Dao; Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 12/12. Bố: Phan Văn L , sinh năm 1967; Mẹ: Phan Thị D (Đã chết).

Tiền án, tiền sự: Không. Tạm giữ ngày 28/5/2019, đến ngày 06/6/2019 được tại ngoại, đến ngày 17/12/2020 bị tạm giam cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 28/05/2019, bị cáo đi bộ từ nhà ở Bản P đến khu vực ngã ba bản Na Tao, xã Pù Nhi xin ngồi nhờ xe máy với một người đàn ông không quen biết, đi về hướng xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát để sang Lào tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực Cầu G9 bị cáo xuống xe, đi bộ theo đường mòn biên giới Việt - Lào sang bản Khằm Nàng (Lào), bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Mông Lào không quen biết, qua nói chuyện với nhau, biết người này cũng nghiện ma túy và có thể giúp mua Heroine cho mình nên đưa cho người này 40.000 (Bốn mươi nghìn đồng). Người đàn ông Lào nhận tiền, đi mua được một gói Heroine quay lại đưa cho bị cáo và cả hai cùng nhau sử dụng tại chỗ một phần, phần còn lại bị cáo gói lại bằng túi nilon để về nhà sử dụng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, bị cáo đi bộ theo đường cũ về Việt Nam, khi đến đoạn đường mòn trên rừng, cách Km 72+200 Quốc lộ 15C thuộc địa phận bản Kéo Hượn, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát khoảng 30m, thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng Pù Nhi và Tổ công tác thuộc Đại đội 215, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa DCND Lào trong quá trình phối hợp tuần tra song phương bảo vệ biên giới phát hiện, yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Ngay lúc này, bị cáo thả gói nilon chứa Heroine đang cầm trên tay trái xuống đất để phi tang nhưng đã bị tổ công tác phát hiện và thu giữ. Sau đó bị cáo và tang vật liên quan được đưa về Trạm kiểm soát biên phòng Kéo Hượn, Đồn Biên phòng Pù Nhi để lập biên bản, xử lý theo quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 1307/PC09 ngày 30/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận vật chứng thu giữ của bị cáo gồm:

- Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong gói nilon màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,362g (không phy ba sáu hai gam) loại: Heroine - Chất bột màu trắng dạng cục vụn trong gói nilon màu vàng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,067g (Một phẩy không sáu bảy gam) loại: Heroine Quá trình điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKS-ML ngày 13/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải và công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên: Bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 điều 51; Điểm c khoản 1 điều 249 của BLHS.

Xử phạt bị cáo, hình phạt chính: Từ 18 đến 20 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giam, được trừ đi 09 ngày đã tạm giữ trước đó.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp và không ổn định, là người nghiện chất ma túy, nên không có tính thực thi.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình và khai nhận, biết rõ hành vi tàng trữ chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật và bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên mua ma túy về sử dụng. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Ý kiến người bào chữa: Tại phiên tòa, người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Cho rằng, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống bằng nghề trồng trọt tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng mức án từ 16 đến 18 tháng tù, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích.

Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo tàng trữ lượng ma túy 1,429g (Một phẩy bốn hai chín gam) Heroine nhằm mục đích cất giữ để sử dụng là nguy hiểm cho bản thân và xã hội, vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Với hành vi, tính chất vụ án, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo; Trọng lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

[4] Xét về hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp và không ổn định. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy tang vật vụ án thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định là chất Nhà nước Việt nam cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy;

Tại phiên tòa, bị cáo xác định, Điện thoại di động đã cũ, không còn sử dụng được nữa nên đề nghị tiêu hủy.

[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Xét thấy, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST cho bị cáo; bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

Đối với người đàn ông, dân tộc Mông đã mua ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, sự việc diễn ra lại không ai chứng kiến. Nên Cơ quan CSĐT không đủ cơ sở để xác minh để xử lý đối với người này.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Về tội danh: Phan Văn Cấu phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về điều luật: Áp dụng: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm c khoản 1 điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử bị cáo 18 (Mười tám) Tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (17/12/2020), được trừ đi 09 ngày đã tạm giữ trước đó. Thời gian còn lại bị cáo phải chấp hành là 17 (Mười bảy) tháng 21 (Hai mốt) ngày.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh hóa giám định ghi vụ: Phan Văn Cấu, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của: Nguyễn Trần Đ , Lưu Bình N ; Hơ Văn T và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá.

- Điện thoại di động nhãn hiệu TELEGO, IMEI 1 số: 8693.0502.2782.539, IMEI 2 số: 8693.0502.2782.547, số seri sim trong điện thoại: 8984.0480.0001.7689.159, điện thoại đã qua sử dụng.

Vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số: 14/QĐ- VKS-ML, ngày 13/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số: 28/TV-CCTHADS ngày 13/4/2021 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát.

Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên: Miễn tiền án phí HSST cho bị cáo .

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai có mặt bị cáo, người bào chữa cho bị cáo; bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Heroine) số 19/2021/HS-ST

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về