Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 13/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

 BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2021/TLST-HS, ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Khương D, sinh ngày 04/01/2001 tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Y, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Ông Đặng Xuân H, sinh năm 1976; mẹ đẻ: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; vợ, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 30/11/2020, Trạm Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang (Trạm số 3 tại Km 28, Hàm Yên) tiến hành dừng phương tiện kiểm tra đối với xe ô tô tải BKS 22C-xxxxx do Đặng Khương D điều khiển. Quá trình kiểm tra, D xuất trình các giấy tờ xe và 01 giấy phép lái xe số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D; ngày sinh 04/01/2001; quốc tịch: Việt Nam; nơi cư trú: X. Thắng Quân, H. Yên Sơn, T. Tuyên Quang; ghi ngày cấp 28/6/2020. Kiểm tra nhanh giấy phép lái xe trên xác định D sử dụng giấy phép lái xe hạng B2 giả điều khiển xe ô tô BKS 22C-xxxxx tham gia giao thông.

Tại Kết luận giám định số 926/GĐ-KTHS, ngày 02/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: “GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE, số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D; ngày sinh 04/01/2001; quốc tịch: Việt Nam; nơi cư trú: X. Thắng Quân, H. Yên Sơn, T. Tuyên Quang; ghi ngày cấp 28/6/2020” là giả.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Khương D khai nhận: Do chưa có Giấy phép lái xe ô tô nên khoảng đầu tháng 9/2020, D sử dụng tài khoản Facebook có tên là “Đặng K. D” lên mạng xã hội và đặt mua của một người không quen biết trên Facebook 01 giấy phép lái xe giả hạng B2 (cấp cho người hành nghề lái xe để điều khiển loại xe ô tô chuyên dùng có trọng tải thiết kế dưới 3.500kg) với giá là 3.000.000 đồng. D gửi thông tin cá nhân, ảnh chụp chân dung, ảnh chụp chứng minh nhân dân cho người này qua tài khoản Facebook. Khoảng 01 tuần sau (không nhớ cụ thể ngày), D nhận được 01 bưu phẩm từ nhân viên chuyển phát đến nhà (không biết tên họ, địa chỉ của nhân viên đó), D thanh toán cho người giao hàng số tiền 3.000.000 đồng và nhận bưu phẩm. Sau khi kiểm tra bưu phẩm D thấy có 01 giấy phép lái xe giả có đặc điểm giống như giấy phép lái xe thật, trên giấy phép lái xe giả có ghi thông tin: “GIẤY PHÉP LÁI XE/DRIVER’S LICENSE, số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D; ngày sinh 04/01/2001; quốc tịch: Việt Nam; nơi cư trú: X. Thắng Quân, H. Yên Sơn, T. Tuyên Quang; ghi ngày cấp 28/6/2020, in dấu Sở Giao thông vận tải tỉnh Tuyên Quang và chữ ký Phó giám đốc Nguyễn Văn Lâm”.

Ngày 28/11/2020, D nhận lời lái xe thuê cho bà Vũ Thị Tình (trú tại thôn 3 Tân Yên, xã Tân Thành, huyện Hàm Yên) để chở cam từ xã Bạch Xa, huyện Hàm Yên đến tỉnh Hải Dương bán. Ngày 30/11/2020, D điều khiển xe ô tô tải BKS 22C-xxxxx (loại xe tải có tải trọng 2400 kg, do bà Tình là chủ sở hữu) chở cam xuất phát từ xã Bạch Xa, huyện Hàm Yên để đi Hải Dương. Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi xe ô tô do D điều khiển đi đến Km163 + 900 Quốc lộ 2, thuộc thôn Ao Vệ, xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên thì bị Trạm Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang (Trạm số 3 tại Km 28, Hàm Yên) tiến hành dừng phương tiện kiểm tra, phát hiện D sử dụng giấy phép lái xe hạng B2 giả để điều khiển xe ô tô BKS 22C-xxxxx tham gia giao thông.

Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSHY, ngày 05/02/2021,Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố Đặng Khương D về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo tội danh, điều luật và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Khương D phạm tội: “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 341; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Khương D từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng kể từ ngày tuyên án, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết việc xử lý vật chứng (tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 giấy phép lái xe giả số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D), khoản tiền án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của Đặng Khương D:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Khương D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của Đặng Khương D còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án (Biên bản vụ việc, Kết luận giám định...).

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 30/11/2020, Đặng Khương D đã có hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (sử dụng giấy phép lái xe ô tô hạng B2 giả) để điều khiển xe ô tô tải BKS 22C - xxxxx tham gia giao thông đường bộ đi từ xã Bạch Xa, huyện Hàm Yên đến Km163 + 900 Quốc lộ 2 thuộc thôn Ao Vệ, xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang thì bị Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang (Trạm số 3 tại Km 28, huyện Hàm Yên) phát hiện.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào trật tự quản lý hành chính và hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan Nhà nước. Do đó cần phải có mức án tương xứng với hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo.

Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và với nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy không cần phải bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ răn đe, giáo dục.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[2] Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Quá trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do Luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về vật chứng, án phí,quyền kháng cáo và các vấn đề khác.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên tạm giữ của Đặng Khương D 01 giấy phép lái xe số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D được xác định là tài liệu, giấy tờ giả nên cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án; đối với 01 xe ô tô BKS 22C-xxxxx cùng các giấy tờ xe đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Vũ Thị Tình nên HĐXX không xem xét.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về các vấn đề khác: Đối với người đã bán giấy phép lái xe giả cho Đặng Khương D qua mạng xã hội Facebook, cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý nên HĐXX không xem xét; đối với bà Vũ Thị Tình là chủ xe ô tô BKS 22C-xxxxx khi thuê D lái xe và giao xe cho D điều khiển tham gia giao thông không biết D sử dụng giấy phép lái xe ô tô giả, cơ quan điều tra không có căn cứ xem xét, xử lý nên HĐXX cũng không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 341; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Quốc hội.

- Tuyên bố: Bị cáo Đặng Khương D phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Đặng Khương D 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 (một) năm; hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/3/2021).

Giao bị cáo Đặng Khương D cho Uỷ ban nhân dân xã Thắng Quân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng:

Tịch thu, lưu hồ sơ vụ án 01 (một) giấy phép lái xe ô tô giả số 08020821xxxxx hạng B2 mang tên Đặng Khương D.

3. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về