Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 302/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 302/2022/HS-PT NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh N, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 239/2022/TLPT-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Lê Chương S và đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh N.

1. Các bị cáo có kháng cáo:

1.1. Họ và tên: Lê Chương S, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2000; Giới tính: Nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã T, huyện V, tỉnh H1; nơi ở: Khách sạn B, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Tự do; con ông Lê Đại S1, sinh năm 1971; con bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1977; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 15/7/2021 sau đó chuyển tạm giam. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh N. Có mặt.

1.2. Họ và tên: Cao Văn T1, sinh năm 1957; Giới tính: Nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú và Nơi cư trú: tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: tự do; con ông Cao Xuân M (đã chết); con bà Bùi Thị T2 (đã chết); gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ hai; vợ: Nguyễn Thị M1, sinh năm 1963;

có 3 con, con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1986; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 17/7/2021 sau đó chuyển tạm giam. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh N. Có mặt.

1.3. Họ và tên: Trần Mạnh C, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm H3, xã T4, huyện T3, tỉnh N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Tự do; con ông Trần Văn L1, sinh năm 1968; con bà Lã Thị N1, sinh năm 1973; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Vũ Thị N2, sinh năm 1999; chưa có con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 15/7/2021 sau đó chuyển tạm giam. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Có mặt.

2. Người bào chữa cho bị cáo Lê Chương S theo chỉ định của Tòa án: Bà Lại Thị Bích L2 - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư B1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh N. Có mặt.

3. Ngoài ra, trong vụ án còn: 03 (ba) bị cáo; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không kháng cáo, không bị kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khách sạn B tại thị trấn Q, huyện G, tỉnh N do Cao Văn T1 làm chủ, kinh doanh dịch vụ lưu trú. Khoảng tháng 10/2020, Phạm Văn D (thường gọi là D Cận) có thuê của T1 phòng 103, 105, 106, 107. Trần Ngọc D (thường gọi là D Chanh, D Trọc) thuê phòng 104.

Khoảng tháng 4/2021, qua mạng xã hội Facebook, Lê Chương S quen biết với Phạm Văn D. Phạm Văn D thuê S làm quản lý nhân viên nữ phục vụ tại các quán hát. S được trả công mỗi tháng 06 triệu đồng cùng 03 triệu đồng tiền ăn, S được bố trí ở tại phòng 106 khách sạn B mà D đã thuê của T1.

Khoảng 13 giờ ngày 15/7/2021, T1 về nhà nên nhờ Lê Chương S trông hộ khách sạn, T1 bảo S nếu có khách thì điện thoại cho T1, S đồng ý. Cùng thời gian này, khi đang uống bia Vũ Xuân L3 rủ Trần Mạnh C đi hát Karaoke có nhân viên nữ phục vụ, mọi chi phí L3 sẽ trả hết và bảo C tìm quán, C đồng ý. Do có mối quan hệ với S ở khách sạn B từ trước, biết khách sạn B có phòng, nên C liên lạc với S đặt phòng tại khách sạn B, S đồng ý. C gọi điện thoại rủ Q1 (tên thật Triệu Thị M2), sau đó C lái xe chở L3 và đón M2 đến khách sạn B.

Khoảng 14 giờ ngày 15/7/2021, L3, C và Q1 đến khách sạn B gặp S ở khu vực quầy lễ tân, S hỏi C chơi như thế nào, thì C nói cho C nửa viên, L3 nói với S “gọi cho cái N3” (N3 tên thật là Đinh Kim H4 là nhân viên nữ ở tại khách sạn B do S quản lý). S sắp xếp dẫn mọi người lên phòng 211, trong phòng đã bật sẵn điều hòa, có loa và đèn, có đệm để dưới nền nhà. S gọi điện cho Trần Ngọc D báo khách lấy hai viên thuốc lắc, Trần Ngọc D đồng ý và đi về khách sạn đưa cho S 02 viên thuốc lắc và 01 túi Ketamine. Sau khi nhận ma tuý của Trần Ngọc D, S vào phòng 107 gọi N3 và cầm ma túy lên phòng 211, S để ma túy lên trên mặt bàn rồi đi xuống, mọi người trong phòng 211 gồm L3, C, H4, M2 mỗi người sử dụng nửa viên thuốc lắc. S gọi điện thoại cho D1 (tên thật là Phượng Mùi S2) đến phòng 211, mục đích để cùng sử dụng ma túy với S. Khoảng 16 giờ ngày 15/7/2021, Trần Ngọc D đi xe ô tô nhãn hiệu Vinfast màu đen về khách sạn B, Trần Ngọc D đưa cho S 10 viên thuốc lắc và ¼ uốn Ketamine, bảo S mang sang khu vực cây xăng huyện H5 để giao cho khách rồi nhận tiền. D nhắn tin cho S số điện thoại của khách mua ma túy là số 0376261820 và dặn S thu của khách 11 triệu đồng, trong đó có cả tiền thuê xe taxi. S đồng ý và gọi Vũ Văn T5 là lái xe taxi đến, khi T5 đi xe ô tô vào trong sân khách sạn, S chạy ra mở cửa xe ô tô của T5 để số ma tuý Trần Ngọc D đưa vào hộc cánh cửa xe ô tô, bên ghế phụ lái 02 túi ni lông màu trắng, gồm 01 túi đựng các viên thuốc lắc màu xanh, 01 túi đựng Ketamine. S bảo T5 mang sang H5 giao cho khách, S sẽ gửi số điện thoại người nhận sau, T5 đồng ý. Sau đó, S nhắn tin gửi T5 số điện thoại người nhận ma túy do Trần Ngọc D gửi, bảo T5 thu hộ của khách 11 triệu đồng. Khi T5 đi đến khu vực xóm 15, xã H6, huyện H5 thì T5 bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ. T5 khai nhận hành vi như trên. Cơ quan điều tra lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ của T5 số ma túy, xe ô tô cùng các giấy tờ xe, 01 căn cước công dân, 02 điện thoại di động đều đã cũ.

Khi Cao Văn T1 quay lại khách sạn B, S thông báo với T1 là đang có khách thuê 2 phòng 202 và 211, trong đó khách trong phòng 211 là khách quen của S. T1 hiểu S cho khách thuê phòng 211 là để chơi sập (tức sử dụng ma túy), nên T1 đi lên 2 phòng để kiểm tra. Khi đến phòng 211, T1 mở cửa phòng ra nhìn vào trong thì thấy trong phòng có 04 người, ánh đèn mờ ảo, có tiếng nhạc lớn, nên biết các đối tượng đang sử dụng ma túy, nhưng không biết sử dụng loại ma túy gì, những ai sử dụng. T1 đóng cửa phòng 211 đi xuống tầng 1 gặp S, nói với S: “Bảo chúng nó nghỉ sớm đi”. S trả lời “Cho chúng nó chơi 1 tiếng nữa”, T1 không nói gì. Khi đó D1 đến, S và D1 lên phòng 211, S lấy túi Ketamine đang để trên mặt bàn trong phòng đổ ra đĩa để “xào ke”, mọi người cùng nhau sử dụng. Số ma túy Ketamine còn lại S để trên bàn, mục đích cho C và L3 sử dụng tiếp. Khi S đi ra khỏi phòng, xuống quầy lễ tân thì bị lực lượng Công an thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp với S, đồng thời tiến hành khám xét khẩn cấp khách sạn B.

Quá trình khám xét phát hiện:

- Tại phòng 211 có 05 người đang có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Vũ Xuân L3, sinh năm 1990; Trần Mạnh C, sinh năm 1994; Đinh Kim H4 (tức N3), sinh ngày 03/7/2005; Triệu Thị M2 (tức Q1), sinh ngày 06/7/2006; Phượng Mùi S2 (tức D1), sinh năm 2001. Thu giữ trên mặt ghế 01 đĩa sứ màu trắng, trên bề mặt đĩa đựng chất bột màu trắng, 01 ống hút được cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, 01 thẻ nhựa màu đen. Chất bột màu trắng trên đĩa gạt cho vào 01 túi ni lông màu trắng niêm phong ký hiệu K1. Thu trên mặt bàn 01 túi ni lông màu trắng bên trong có các hạt tinh thể màu trắng, được niêm phong ký hiệu K2. Còn đĩa, ống hút, thẻ nhựa được niêm phong ký hiệu K3 trong túi niêm phong mã số NS1-2013501. Ngoài ra, còn thu giữ 02 đèn led, 01 loa màu đen, 06 điện thoại di động, số tiền 2.826.000 đồng và 01 căn cước công dân của Vũ Xuân L3.

- Tại phòng 202 có 03 người (01 nam, 02 nữ) thuê phòng nghỉ gồm: Trần Văn C1, sinh năm 1984; Hoàng Thu H7, sinh năm 2003; Phùng Kim H8, sinh năm 2003. Quá trình khám xét phòng 202 không phát hiện, thu giữ gì. Cơ quan điều tra tiến hành thu giữ, xét nghiệm nước tiểu của 03 người trong phòng 202. Kết quả cả 03 người đều âm tính với chất ma túy.

- Tại phòng 103 thu giữ: 01 thùng cát tông trên mặt có ghi “0977286777 (4T)” bên trong chứa 05 hộp thuốc lá điện tử và 120 vỏ quả bóng cao su màu trắng; 01 két sắt (trong két không có đồ vật, tài sản gì), trên bề mặt két có 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng 01 túi ni lông màu trắng chứa 48 viên nén màu xanh (ký hiệu 103K1); 01 đĩa sứ, trên đĩa có 01 cân tiểu ly và 05 túi ni lông đều đựng các hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 103K2); Thu trên nóc tủ gỗ 01 túi ni lông màu đen, bên trong đựng 01 túi ni lông màu trắng chứa 500 viên nén màu xanh và 01 túi ni lông màu trắng chứa 100 viên nén màu xanh được niêm phong ký hiệu 103K3; 01 túi ni lông màu trắng chứa 17 túi ni lông màu trắng đều đựng các hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 103K4).

- Tại phòng 104: Thu giữ 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh; 01 bật lửa dạng khò; 01 cân tiểu ly màu đen; 03 chiếc loa; 02 quyển sổ màu đen; 01 vỏ phong bì có ghi Phạm Văn D, xóm 3, H9, G1, G; 01 chứng minh (bản photo) mang tên Trần Ngọc D; 01 giấy vay tiền của Nguyễn Văn C2; 01 túi ni lông màu đỏ trên mặt túi có chữ “Đặc sản Na Hang” bên trong chứa 120 vỏ túi ni lông màu trắng đều có KT 4x7cm; 01 USB màu trắng; 01 điện thoại di động (ĐTDĐ) nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ; Thu trên mặt bàn gỗ: 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 104K1); Thu trên nóc tủ gỗ: 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng chất bột màu hồng nhạt (ký hiệu 104K2).

- Tại phòng 105: Thu giữ trên kệ sắt 02 chiếc đèn led; Thu trên ghế sát giường: 01 đĩa sứ, trên đĩa có chất bột màu trắng và 01 ống hút cuốn bằng tờ 10.000đ, 01 thẻ nhựa. Chất bột màu trắng trên đĩa được cho vào 01 túi ni lông màu trắng (ký hiệu 105K1). Còn đĩa, thẻ nhựa, ống hút niêm phong (ký hiệu 105K2 trong túi niêm phong mã số NS1-2013502).

- Tại phòng 106: 05 quyển sổ màu đen. Thu trên giường ngủ: 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 106K7); 01 ví màu đen bên trong có: 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 106K5), 01 căn cước công dân mang tên Lê Chương S, 02 thẻ nhựa; 01 quần bò màu xanh ở túi quần bên trái phía sau có 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng 02 viên nén màu xanh nước biển, 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng 03 viên nén màu xám và chất bột màu xám (ký hiệu 106K1). Thu trên nóc tủ gỗ: 01 cân điện tử; 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 106K6); 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng 01 viên nén màu xanh (ký hiệu 106K4); 01 hộp giấy màu trắng chứa 01 hộp kim loại màu trắng bên trong đựng: 01 túi ni lông màu trắng bên trong đựng 68 viên nén màu xanh (ký hiệu 106K3), 01 túi ni lông màu trắng KT 10x6 cm bên trong đựng hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu 106K2).

- Tại phòng 107 có 02 người (02 nữ) gồm: Bùi Huyền N4, sinh năm:

2006; Triệu Thị H9, sinh năm: 1995. Quá trình khám xét thu giữ: 01 cân tiểu ly màu đen đã cũ; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ; Thu giữ trong tủ gỗ: 01 chiếc túi da màu đen bên trong có: 01 túi ni lông đựng 01 viên nén màu xanh, 01 túi ni lông đựng 06 viên nén màu xanh, 02 túi ni lông màu xanh đều chứa chất bột màu xanh và trên tủ gỗ có 01 hộp giấy màu vàng bên trong có 02 viên nén màu vàng, 01 viên nén màu xanh nước biển, 01 viên nén trắng được bọc bằng nhựa màu hồng. Tất cả các mẫu viên nén được niêm phong (ký hiệu 107K1); Thu trên thành cửa sổ: 01 đĩa sứ hình elip màu trắng trên bề mặt đĩa có bám dính chất bột màu trắng (ký hiệu 107K2 trong túi niêm phong mã số NS1-2013503).

Trưng cầu giám định chất ma tuý đối với các đồ vật thu giữ nghi là ma tuý và chất bám dính trên các dụng đồ vật thu giữ trong các phòng tại khách sạn B và thu giữ của T5.

Tại kết luận giám định số 979/GĐKTHS ngày 16/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N kết luận: Mẫu bột màu trắng niêm phong ký hiệu K1 và mẫu các hạt tinh thể màu trắng ký hiệu K2 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Ketamine. Khối lượng mẫu K1: 0,640 gam. Khối lượng mẫu K2:

2,881 gam (ma tuý thu tại phòng 211).

Tại kết luận giám định số 980/GĐKTHS ngày 23/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N kết luận:

- Mẫu bột màu trắng niêm phong ký hiệu 105K1 và mẫu các hạt tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu M2, 103K2, 103K4, 106K2, 106K5, 106K6 và 106K7 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Ketamine. Khối lượng mẫu 105K1: 0,215 gam; mẫu M2: 5,088 gam; mẫu 103K2: 29,419 gam; mẫu 103K4:

27,410 gam; mẫu 106K2: 20,006 gam; mẫu 106K5: 0,156 gam; mẫu 106K6:

0,008 gam; mẫu 106K7: 0,003 gam.

- Mẫu các hạt tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu 104K1 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,899 gam.

- Mẫu bột màu hồng nhạt được niêm phong ký hiệu 104K2 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy gồm: Methamphetamine và Ketamine. Khối lượng mẫu: 18,673 gam.

- Mẫu bột màu xanh được niêm phong ký hiệu 107K1; mẫu các viên nén màu xanh hình tam giác được niêm phong ký hiệu M1, 103K1, 103K3, 106K3; mẫu các viên nén màu xanh được niêm phong ký hiệu 106K1, 106K4, 107K1; mẫu các viên nén màu xám và chất bột màu xám được niêm phong ký hiệu 106K1, 107K1 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: MDMA. Tổng khối lượng mẫu M1: 4,092 gam; mẫu 103K1: 19,670 gam; mẫu 103K3: 245,730 gam; mẫu 106K3: 27,868 gam; mẫu 106K1: 1,429 gam; mẫu 106K4: 0,156 gam; mẫu 107K1: 2,475 gam.

- Không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp theo danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành trong mẫu 02 viên nén màu vàng và mẫu 01 viên nén màu trắng niêm phong ký hiệu 107K1 gửi giám định. Tổng khối lượng mẫu 02 (hai) viên nén màu vàng: 0,949 gam; Khối lượng mẫu 01 (một) viên nén màu trắng: 1,427 gam.

Tại kết luận giám định số 1000/GĐKTHS ngày 23/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N kết luận: Mẫu bột màu trắng bám dính trên mẫu vật ký hiệu NS1-2013501, NS1-2013502, NS1-2013503 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Ketamine. Tổng khối lượng mẫu NS1-2013501 là 0,012 gam; mẫu NS1-2013502 là 0,004 gam; mẫu NS1-2013503 là 0,008 gam.

Thu giữ và giám định chất ma tuý trong mẫu nước tiểu của 05 người trong phòng 211, S, T5 và 02 người phòng 107 (N4, H9).

Tại kết luận giám định số 999/GĐKTHS ngày 27/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N kết luận:

- Có tìm thấy thành phần các chất Ketamine, Norketamine và Dehydronorketamine trong mẫu nước tiểu ký hiệu T02 (Lê Chương S), T03 (Triệu Thị H9) và T04 (Bùi Huyền N4) gửi giám định.

- Có tìm thấy thành phần các chất MDMA, Ketamine, Norketamine và Dehydronorketamine trong 05 (năm) mẫu nước tiểu ký hiệu T05 (Trần Mạnh C), T06 (Vũ Xuân L3), T07 (Triệu Thị M2), T08 (Đinh Kim H4) và T08 (Phượng Mùi S2) gửi giám định.

- Không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp theo danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành trong 01 (một) mẫu nước tiểu ký hiệu T01 (Vũ Văn T5) gửi giám định.

Tại cơ quan điều tra: Cao Văn T1, Lê Chương S, Vũ Văn T5 cùng các đối tượng khác đều khai nhận hành vi như trên.

Lê Chương S khai nhận: Khi S xuống khách sạn B làm cho Phạm Văn D thì S cũng quen biết với Trần Ngọc D. S thường xuyên ở tại khách sạn B, S được Phạm Văn D giao cầm giữ, cất giấu, quản lý ma túy để bán cho khách và ghi chép sổ sách cho Phạm Văn D. Trần Ngọc D ở phòng 104 và là bạn của Phạm Văn D, nên Trần Ngọc D cũng giao ma túy cho S để bán lẻ cho khách (ma túy của Phạm Văn D và Trần Ngọc D được S quản lý riêng biệt). Việc bán ma túy cho khách, S ghi chép vào sổ và thông báo kết quả cho Phạm Văn D và Trần Ngọc D qua các ứng dụng mạng xã hội trên điện thoại di động.

Về quản lý, cất giữ số ma túy cụ thể như sau: Ma túy của Trần Ngọc D gồm: Số ma túy thu giữ trong hộp kim loại màu trắng trong hộp giấy màu trắng thu trên nóc tủ phòng 106 gồm 01 túi Ketamine (ký hiệu 106K2) và 68 viên thuốc lắc (ký hiệu 106K3). Số ma túy trên được S chụp lại vào chiều ngày 14/7/2021 và gửi cho Trần Ngọc D để thông báo cho Trần Ngọc D biết số ma túy còn lại. Từ thời điểm đó đến khi S bị bắt giữ chiều ngày 15/7/2021, S chưa bán số ma túy trên cho ai; Ma túy của Phạm Văn D gồm: 48 viên thuốc lắc để ở trong hộp nhựa trên mặt két sắt phòng 103 (ký hiệu 103K1); số ma túy Ketamine (05 túi) thu trên mặt két sắt phòng 103 (ký hiệu 103K2); 600 viên thuốc lắc (ký hiệu 103K3) và 17 chỉ Ketamine (ký hiệu 103K4) để trên nóc tủ phòng 103; 01 viên trên nóc tủ phòng 106 (ký hiệu 106K4); 01 túi Ketamine trong ví trên giường phòng 106 (ký hiệu 106K5); 01 túi ketamine thu tại phòng 106 trên nóc tủ (ký hiệu 106K6), 01 túi Ketamine trên giường phòng 106 (ký hiệu 106K7); Số ma túy còn lại S khai không biết của ai gồm: Các mẫu ma túy thu giữ trong phòng 104 ký hiệu 104K1 và 104K2; thu giữ trong phòng 105 ký hiệu 105K1 và 105K2; thu giữ trong phòng 106 ký hiệu 106K1; thu giữ trong phòng 107 được ký hiệu 107K1 và 107K2.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Ngọc D khai: Không biết, không liên quan đến số ma túy thu giữ tại các phòng ở khách sạn B, D không đưa ma túy cho S quản lý để bán cho khách. Ngày 15/7/2021, Trần Ngọc D không đưa ma túy cho S để mang bán cho khách ở H5 và khách ở phòng 211. Tuy nhiên D thừa nhận, D có thuê phòng 104 tại khách sạn B làm nơi ăn nghỉ và hoạt động tín dụng, từ tháng 05/2021 D vẫn thuê phòng 104 nhưng không thường xuyên ở phòng 104, chìa khóa phòng thì D gửi D Cận. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Trần Ngọc D và Lê Chương S đối chất với nhau, kết quả D và S vẫn giữ các nội dung đã khai.

Quá trình điều tra, Vũ Xuân L3, Trần Mạnh C khai: C gọi cho S rồi sang khách sạn B mục đích không phải để sử dụng ma túy mà để đi hát Karaoke có nhân viên nữ phục vụ. C gọi Q1, L3 gọi N3 mục đích để hát cùng và phục vụ, tiền công của N3 do S trả. Khi S hỏi C chơi như thế nào thì C nói cho C nửa viên. Việc ma túy có trong phòng 211 là do S mang vào để mời L3, C sử dụng (những người khác có sử dụng hay không L3, C không để ý), L3 là người thanh toán mọi chi phí của buổi chơi. L3 và C đã sử dụng thuốc lắc và Ketamine, số Ketamine còn lại trên đĩa sứ và túi Ketamine trên mặt bàn trong phòng 211, L3 và C đều nhìn thấy và đều có mục đích sẽ tiếp tục sử dụng. Cơ quan điều tra đã cho Trần Mạnh C và Lê Chương S đối chất. Kết quả C vẫn khai như nội dung trên, Lê Chương S khẳng định C bảo S mang cho hai người 01 viên thuốc lắc (tổng 04 người là 2 viên) và S không mời ma túy với C, L3 mà khi chơi xong nhóm C phải trả tiền.

Đối với Phạm Văn D, sinh năm 1991, trú tại: Xóm 3 H9, xã G1, huyện G, tỉnh N (người mà S, T1 khai là người thuê các phòng ở khách sạn B). Hiện D không có mặt tại địa phương, chưa triệu tập để làm việc, Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục giải quyết.

Đối với người khách nhận ma túy của Vũ Văn T5 ở huyện H5 có số thuê bao 0376261820. Cơ quan điều tra tra cứu chủ thuê bao mang tên Nguyễn Văn T6, sinh ngày 01/01/1977, địa chỉ: P, xã P1, huyện H10, tỉnh Đ1. Hiện T6 không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Phòng CSĐT tội phạm về ma túy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Chương S, Vũ Xuân L3, Trần Mạnh C, Triệu Thị H9, Bùi Huyền N4, Triệu Thị M2, Đinh Kim H4, Phượng Mùi S2.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh N, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Chương S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo Cao Văn T1 phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Mạnh C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 251; điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lê Chương S: tù Chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và 09 (chín) năm tù, về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả 02 tội là tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021. Phạt bổ sung bị cáo Lê Chương S 15.000.000đồng.

Áp dụng: điểm c, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Cao Văn T1 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021. Phạt bổ sung bị cáo Cao Văn T1 50.000.000đồng.

Áp dụng: điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt Trần Mạnh C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Trần Ngọc D, Vũ Văn T5 và Vũ Xuân L3, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/01/2022, các bị cáo Cao Văn T1 và Trần Mạnh C có đơn kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 28/01/2022, bị cáo Lê Chương S có đơn kháng cáo nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Chương S, bị cáo Cao Văn T1 giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị giảm nhẹ hình phạt xuống mức thấp nhất; Bị cáo S đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Bị cáo Trần Mạnh C tự nguyện rút đơn kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Chương S trình bày quan điểm: Nhất trí với tội danh và điều khoản như quyết định của bản án sơ thẩm. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, quá trình điều tra và tại phiên toà đều khai báo thành khẩn, thật sự ăn năn hối cải, có thời gian phục vụ trong quân ngũ, gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử phạt tù có thời hạn, miễn hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo S.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: bị cáo Lê Chương S bị xử phạt về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự; bị cáo Cao Văn T1 bị xử phạt về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm c, d khoản 2 Điều 256 và bị cáo Trần Mạnh C bị xử phạt về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Mạnh C tự nguyện rút đơn kháng cáo, đề nghị căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trần Mạnh C; đối với bị cáo Lê Chương S do không có tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị bác kháng cáo và giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm; đối với bị cáo Cao Văn T1 cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới là có căn cứ, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho T1 từ 16 tháng đến 18 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Mạnh C rút đơn kháng cáo, xét thấy việc rút đơn là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo C.

[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Chương S và bị cáo Cao Văn T1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết là đúng pháp luật, không oan. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau; phù hợp lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp các lời khai các bị cáo khác trong cùng vụ án không có kháng cáo; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng; kết luật giám định về khối lượng và loại ma túy đã thu giữ; lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Lê Chương S được Cao Văn T1 nhờ, giao quản lý khách sạn B tại thị trấn Q, huyện Giao Thuỷ, tỉnh N. Ngày 15/7/2021, Vũ Xuân L3 rủ Trần Mạnh C đi hát Karaoke có nhân viên nữ phục vụ, mọi chi phí L3 sẽ trả hết và bảo C tìm quán, C đồng ý. Do có mối quan hệ với S từ trước, biết khách sạn B có phòng, nên C liên lạc với S đặt phòng tại khách sạn B, S đồng ý. S nghĩ C, L3 đến khách sạn để sử dụng ma túy, S biết phòng 211 dùng để cho khách bay lắc, nên S đã sắp xếp phòng cho C, L3, M2, gọi H7 lên phòng 211 (khi đó H7 16 tuổi 12 ngày, M2 15 tuổi 09 ngày). Đồng thời cung cấp ma tuý cho phòng 211 sử dụng, các đối tượng chưa sử dụng hết còn lại 3,533 gam Ketamine; Khi Cao Văn T1 quay lại khách sạn B, được S thông báo đang có khách thuê phòng 211, T1 hiểu S cho khách thuê phòng 211 là để chơi sập (tức sử dụng ma túy), T1 đi lên kiểm tra, mở cửa phòng thấy trong phòng có 04 người, ánh đèn mờ ảo, có tiếng nhạc lớn, nên biết các đối tượng đang sử dụng ma túy, T1 đóng cửa phòng 211 đi xuống tầng 1; S còn đưa cho T5 4,092 gam MDMA và 5,088 gam Ketamine để đi bán cho khách lấy 11 triệu đồng thì bị phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, khi khám xét Lê Chương S còn cất giữ, quản lý nhằm mục đích để bán 293,424 gam MDMA và 77,002 gam Ketamine cho Phạm Văn D và Trần Ngọc D. Như vậy, Lê Chương S phải chịu trách nhiệm với tổng khối lượng ma túy đã và sẽ bán gồm 297,516 gam MDMA và 85,623 gam Ketamine. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Chương S đã cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, vi phạm tình tiết định khung: “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”, theo điểm h khoản 4 Điều 251 và tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, vi phạm tình tiết định khung: “Đối với 02 người trở lên”, “Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự; hành vi của bị cáo Cao Văn T1 đã cấu thành tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, vi phạm tình tiết định khung: “Đối với người dưới 16 tuổi”, “Đối với 02 người trở lên” theo điểm c, d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh N đã xét xử bị cáo Lê Chương S và bị cáo Cao Văn T1 theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Trong vụ án, hành vi của bị cáo Trần Ngọc D và bị cáo Vũ Văn T5 bị xử phạt về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; hành vi của bị cáo Vũ Xuân L3 bị xử phạt về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, chỉ vì hám lợi về vật chất, bất chấp quy định của pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, chất gây nghiện; góp phần gây ra tệ nạn ma túy, làm hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, gây tác hại tiêu cực về nhiều mặt trong đời sống xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại và hình phạt đối với tội phạm về ma túy là rất nghiêm khắc, nhưng do vụ lợi đã mua bán, tổ chức và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo Lê Chương S cùng một lúc phạm hai tội, tổ chức và mang ma túy lên bán cho khách phòng 211, đưa ma túy cho T5 đi bán, nên S phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, khối lượng ma túy thu giữ của S để mua bán rất lớn gồm 297,516 gam MDMA và 85,623 gam Ketamine; bị cáo Cao Văn T1 chủ khách sạn, biết S tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng hát Karaoke, không báo các lực lượng chức năng, bỏ mặc để cho sử dụng trong đó có người chưa thành niên. Do đó, cấp phúc thẩm đồng tình cần phải có mức hình phạt thật nghiêm, việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội là cần thiết, để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xem xét các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Lê Chương S có thời gian tham gia quân đội, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, vai trò, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, tình hình đấu tranh phòng chống với loại tội phạm này, xử phạt bị cáo: Lê Chương S tù Chung thân, bị cáo Cao Văn T1 10 năm tù là phù hợp.

[4]. Xét kháng cáo của các bị cáo:

[4.1]. Đối với Lê Chương S: Ngoài tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng. Tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo S xuất trình thêm tình tiết nộp 200.000đồng án phí sơ thẩm, đơn xác nhận của địa phương có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Xét thấy, những tình tiết này là không đáng kể để có thể giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đồng thời với khối lượng ma túy mua bán là lớn, phạm hai tội cùng lúc, trong khi tình hình tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo S tù Chung thân cho hai tội là thỏa đáng, nên không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt đối với S, về hình phạt bổ sung do hoàn cảnh khó khăn cần miễn cho S. Do vậy, cấp phúc thẩm giữ nguyên hình phạt tù Chung thân, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với S. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo S, được chấp nhận một phần.

[4.2]. Đối với Cao Văn T1: Ngoài tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng. Tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo T1 xuất trình thêm tình tiết: Nộp ủng hộ Quỹ phòng chống Covid thị trấn Q số tiền 10.000.000đồng; nộp 30.000.000đồng tiền phạt bổ sung và 200.000đồng án phí sơ thẩm; có nhiều đóng góp cả vật chất và tinh thần các phong trào tại địa phương: Phong trào xây dựng nông thôn mới, Phong trào đền ơn đáp nghĩa, Phong trào khuyến học, … được UBND thị trấn Q xác nhận; bị cáo T1 hiện 65 tuổi bị bệnh tiểu đường, sức khỏe yếu. Xét thấy, căn cứ mà bị cáo xuất trình là tình tiết giảm nhẹ mới, cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo T1, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[5]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở và được chấp nhận.

[6]. Đối với hành vi của Phạm Văn D, sinh năm 1991, trú tại: Xóm 3 H9, xã G1, huyện G, tỉnh N (người mà S, T1 khai là người thuê các phòng ở khách sạn B). Hiện D không có mặt tại địa phương, chưa triệu tập để làm việc; Đối với người khách nhận ma túy của Vũ Văn T5 ở huyện H5 có số thuê bao 0376261820. Cơ quan điều tra tra cứu chủ thuê bao mang tên Nguyễn Văn T5, sinh ngày 01/01/1977, địa chỉ: P, xã P1, huyện H10, tỉnh Đ1. Hiện T5 không có mặt tại địa phương. Do vậy, Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục giải quyết là có căn cứ. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm kiến nghị cần tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7]. Về án phí: Kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ Điều 348, điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trần Mạnh C. Bản án hình sự sơ thẩm 06/2022/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh N có hiệu lực đối với bị cáo Trần Mạnh C.

2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Chương S, về phần hình phạt bổ sung; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Văn T1, về phần hình phạt tù.

3. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm 06/2022/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh N.

3.1. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 55; Điều 58; Điều 39 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lê Chương S: Tù Chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và 09 (chín) năm tù, về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là: Tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Chương S.

3.2. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Cao Văn T1 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Cao Văn T1 50.000.000đồng.

Ghi nhận bị cáo Cao Văn T1 đã nộp 30.200.000đồng tại Biên lai thu tiền số 0004517 ngày 19/4/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh N.

4. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

650
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 302/2022/HS-PT

Số hiệu:302/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về