TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Hữu M, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1995; tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện T, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu D và bà Lê Thị T (đều đã chết); Vợ: chưa có; Tiền sự: Không.
*Tiền án:
1. Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2015/HSST ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội, xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong án phạt tù ngày 26/8/2017.
2. Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2018/HSST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội, xử phạt 32 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phạt tù ngày 15/01/2021.
Bị cáo bị bắt tạm giữ theo biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú từ ngày 19/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội .
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2/ Bùi Văn S, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2002; tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã M, huyện K, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B và bà Bùi Thị V (đã chết); Vợ: chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ theo biên bản bắt người phạm tội quả tang từ ngày 19/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội .
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 19/12/2021, S đi xe ôm của người không quen biết từ khu vực Ba La, quận Hà Đông đến gặp M tại quán cắt tóc của chị Ngô Thiện H1- SN 1990, HKTT: Thôn V, xã X, huyện T, TP.Hà Nội (bạn gái của M) để chơi. Khi S gặp M, M đưa cho S số tiền 3.000.000 đồng và cho S số điện thoại 09xx.xxx.xxx của một người nam giới tên H2 (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể), nhờ S đi đến khu vực đường tàu Ba La, Hà Đông gặp H2 để mua ma túy đá về cho M. S đồng ý và cầm tiền M đưa, đồng thời M giao cho S chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Winner, màu đỏ đen, BKS 19C1-375.97 để S đi mua ma túy. S điều khiển chiếc xe máy BKS 19C1-375.97 đi đến khu vực đường tàu Ba La, quận Hà Đông. Tại đây, S nhìn thấy một người nam giới không quen biết (không biết tên, nhân thân, lai lịch), đang đứng ở lề đường nên điều khiển xe đến gần và hỏi: “Chú H2 à?”. Người nam giới trả lời: “Ừ” thì S nói: “Cháu lấy đồ cho anh M” và đưa số tiền 3.000.000 đồng cho người nam giới, người này cầm tiền và đưa lại cho S 01 (một) túi ni lông bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy dạng đá. S cầm túi ma túy cất vào túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe máy BKS 19C1-375.97 với mục đích đi về gặp M. Hồi 16 giờ 00 phút cùng ngày, khi S đang điều khiển chiếc xe máy BKS 19C1-375.97 mang theo ma túy đi trên đường Quốc lộ 21B, khu vực đối diện ngõ 7, tổ 1, phường Phú Lương, quận Hà Đông thì bị tổ công tác Công an phường Phú La phối hợp với Công an phường Phú Lương, quận Hà Đông kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ, gồm:
01(một) túi ni lông kích thước (4x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy;
01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Poco M3, màu đen đã qua sử dụng;
01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ đen, BKS: 19C1- 375.97, SM: KC34E117496, SK: RLHKC373LY015226, đã qua sử dụng, là phương tiện M giao cho S sử dụng để đi mua ma túy.
Cùng ngày 19/12/2021, M đã đến Công an phường Phú La, quận Hà Đông, xin đầu thú và khai nhận hành vi vi phạm của bản thân; đồng thời tự nguyện giao nộp 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng, dùng để lưu số điện thoại của đối tượng tên “H2”.
Ngày 20/12/2021, Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định số 30 đối với 01(một) túi ni lông kích thước (4x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy đã thu giữ nêu trên của Bùi Văn S. Tại Kết luận giám định số 9084/KLGĐ- PC09 ngày 27/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 2,029 gam.
Về nguồn gốc Methamphetamine: S khai mua của người đàn ông không quen biết tên H2 (không biết nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường tàu Ba La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho S và M nhận dạng nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy. Quá trình điều tra, ngoài lời khai của S và M không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ. Do đó, Cơ quan điều tra đã tách đối tượng bán ma túy khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh; khi nào làm rõ xử lý sau.
Đối với 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Winner, màu đỏ đen, BKS:
19C1-375.97, SM: KC34E117496, SK: RLHKC373LY015226, đã qua sử dụng, thu giữ nêu trên là phương tiện S sử dụng để đi mua ma túy. Kết quả điều tra xác định: chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị A-SN: 1998; HKTT: Khu 5 Tất Thắng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; trú tại: Thôn T, xã H, huyện T, thành phố Hà Nội (bạn quen biết xã hội của M). Khoảng tháng 12/2021, chị A cho M mượn chiếc xe trên sử dụng làm phương tiện đi lại, chị A không biết việc M giao chiếc xe trên cho S sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 09/3/2022, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thị A là có căn cứ, đúng pháp luật.
Trước cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu M và Bùi Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản cáo trạng số 51/2022/CT-VKS-HĐ ngày 31/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Nguyễn Hữu M về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm q khoản 2 khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bùi Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Bị cáo Bùi Văn S khai không biết bị cáo M nhờ đi mua ma túy hộ để bị cáo M bán kiếm lời và bị cáo cũng không được hưởng lợi gì trong việc mua hộ ma túy cho bị cáo M.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ vào điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu M từ 7 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn S từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền đối với các bị cáo vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.
Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 .
Tịch thu tiêu hủy: 01 ( một ) phong bì CATP Hà Nội, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Bùi Văn S, cán bộ Công an Lê Tuấn Đạt và của giám định viên Nguyễn Thị Thành.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Poco M3 màu đen thu của bị cáo S.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A7 màu xanh thu của bị cáo M.
Bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân quận Hà Đông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ trong vụ án và kết luận giám định. Đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 19/12/2021, Nguyễn Hữu M nhờ Bùi Văn S đi mua hộ ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời, M đưa cho S số tiền 3.000.000 đồng, S đi đến khu vực đường tàu Ba La, Hà Đông, mua được 01 túi ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 2,029 gam mang về cho M. Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu M đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Còn đối với hành vi mua hộ ma túy của bị cáo Bùi Văn S thì tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận bị cáo S không biết mục đích của bị cáo M mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời, bị cáo S cũng không được hưởng lợi gì trong việc mua hộ ma túy cho bị cáo M nên hành vi của bị cáo S đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, làm sói mòn đạo đức xã hội và còn là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.
[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo đủ điều kiện hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[6]. Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S là người đã trưởng thành, có sức khỏe, biết rất rõ tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật, nhưng vẫn cố tình tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của các bị cáo là cố ý, có tính chất độc lập, giản đơn. Bị cáo S thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, bị cáo M thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, bản thân bị cáo M là người đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy, cần phải được xử lý nghiêm khắc trước pháp luật tương ứng với từng hành vi phạm tội của các bị cáo.
[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, do vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 của Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. [8]. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: 01 ( một ) phong bì CATP Hà Nội, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Bùi Văn S, cán bộ Công an Lê Tuấn Đạt và của giám định viên Nguyễn Thị Thành.
Đối với 02 chiếc điện thoại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Poco M3 màu đen thu của bị cáo S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A7 màu xanh thu của bị cáo M đây là công cụ, phương tiện mà các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[9]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.
[10]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Bùi Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ: Điểm q khoản 2 Điều 251 ; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 .
Xử phạt: Nguyễn Hữu M 08 ( tám ) năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ theo biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú ngày 19/12/2021.
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249 ; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 .
Xử phạt: Bùi Văn S 30 ( ba mươi ) tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 19/12/2021.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 ; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 ( một ) phong bì CATP Hà Nội, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Bùi Văn S, cán bộ Công an Lê Tuấn Đạt và của giám định viên Nguyễn Thị Thành.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Poco M3 màu đen thu của bị cáo S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A7 màu xanh thu của bị cáo M.
( theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Hữu M và bị cáo Bùi Văn S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2022/HS-ST
Số hiệu: | 94/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về